Trường Bộ 24
Dīgha Nikāya 24
Kinh Ba-Lê
Pāthikasutta
1. Câu Chuyện Về Sunakkhatta
1. Sunakkhattavatthu
Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời Thế Tôn ở giữa bộ lạc Malla(Mạt-la), tại Anupiya (A-dật-di), một thành của bộ lạc Mallā.
ekaṁ samayaṁ bhagavā mallesu viharati anupiyaṁ nāma mallānaṁ nigamo.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn đắp y vào buổi sáng, cầm y bát vào thành Anupiya để khất thực.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya anupiyaṁ piṇḍāya pāvisi.
Rồi Thế Tôn tự nghĩ:
Atha kho bhagavato etadahosi:
“Thật là quá sớm để vào thành Anupiya khất thực.
“atippago kho tāva anupiyāyaṁ piṇḍāya carituṁ.
Ta hãy đến tịnh xá của du sĩ Bhaggava và thăm vị này.”
Yannūnāhaṁ yena bhaggavagottassa paribbājakassa ārāmo, yena bhaggavagotto paribbājako tenupasaṅkameyyan”ti.
Thế Tôn liền đi đến tịnh xá du sĩ Bhaggava.
Atha kho bhagavā yena bhaggavagottassa paribbājakassa ārāmo, yena bhaggavagotto paribbājako tenupasaṅkami.
Rồi du sĩ Bhaggava bạch Thế Tôn:
Atha kho bhaggavagotto paribbājako bhagavantaṁ etadavoca:
Thế Tôn hãy đến gần!
“etu kho, bhante, bhagavā.
Xin chào đón Thế Tôn.
Svāgataṁ, bhante, bhagavato.
Ðã lâu, Thế Tôn mới có dịp đến đây.
Cirassaṁ kho, bhante, bhagavā imaṁ pariyāyamakāsi yadidaṁ idhāgamanāya.
Mời Thế Tôn ngồi, đây là chỗ ngồi đã soạn sẵn.”
Nisīdatu, bhante, bhagavā, idamāsanaṁ paññattan”ti.
Thế Tôn ngồi trên chỗ đã soạn sẵn,
Nisīdi bhagavā paññatte āsane.
và du sĩ Bhaggava lấy một ghế ngồi khác thấp hơn rồi ngồi xuống một bên.
Bhaggavagottopi kho paribbājako aññataraṁ nīcaṁ āsanaṁ gahetvā ekamantaṁ nisīdi.
Sau khi ngồi xuống một bên, du sĩ Bhaggava bạch Thế Tôn:
Ekamantaṁ nisinno kho bhaggavagotto paribbājako bhagavantaṁ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, ngày xưa và nhiều ngày xưa nữa, Sunakkhatta (Thiện Tịnh) thuộc bộ lạc Licchavi (Ly-xa tử) đến con và nói như sau:
“purimāni, bhante, divasāni purimatarāni sunakkhatto licchaviputto yenāhaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṁ etadavoca:
“Này Bhaggava, nay tôi từ bỏ Thế Tôn!
‘paccakkhāto dāni mayā, bhaggava, bhagavā.
Nay tôi không sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn nữa.”
Na dānāhaṁ bhagavantaṁ uddissa viharāmī’ti.
Bạch Thế Tôn, sự việc có phải như Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi nói hay không?
Kaccetaṁ, bhante, tatheva, yathā sunakkhatto licchaviputto avacā”ti?
Này Bhaggava, sự việc thật như Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi đã nói.
“Tatheva kho etaṁ, bhaggava, yathā sunakkhatto licchaviputto avaca.
Này Bhaggava, thuở xưa và rất xa xưa, Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi đến thăm Ta. Sau khi đến, đảnh lễ Ta và ngồi xuống một bên. Này Bhaggava, Sumakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi bạch với Ta:
Purimāni, bhaggava, divasāni purimatarāni sunakkhatto licchaviputto yenāhaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto maṁ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, nay con xin từ bỏ Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, nay con không sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn nữa.”
‘paccakkhāmi dānāhaṁ, bhante, bhagavantaṁ. Na dānāhaṁ, bhante, bhagavantaṁ uddissa viharissāmī’ti.
Này Bhaggava, khi nghe nói vậy, Ta nó với Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi:
Evaṁ vutte, ahaṁ, bhaggava, sunakkhattaṁ licchaviputtaṁ etadavocaṁ:
Này Sunakkhatta, Ta có nói với Ngươi:
‘api nu tāhaṁ, sunakkhatta, evaṁ avacaṁ,
“Này Sunakkhatta, hãy đến đây sống dưới sự chỉ dẫn của Ta” chăng?
ehi tvaṁ, sunakkhatta, mamaṁ uddissa viharāhī’ti?
Bạch Thế Tôn, không!
‘No hetaṁ, bhante’.
Hay Ngươi có nói với Ta:
‘Tvaṁ vā pana maṁ evaṁ avaca—
“Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn” chăng?
ahaṁ, bhante, bhagavantaṁ uddissa viharissāmī’ti?
Bạch Thế Tôn, không!
‘No hetaṁ, bhante’.
Này Sunakkhatta, Ta không nói:
‘Iti kira, sunakkhatta, nevāhaṁ taṁ vadāmi—
“Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta”
ehi tvaṁ, sunakkhatta, mamaṁ uddissa viharāhīti.
và Ngươi cũng không nói với Ta:
Napi kira maṁ tvaṁ vadesi—
“Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn”.
ahaṁ, bhante, bhagavantaṁ uddissa viharissāmīti.
Này kẻ ngu kia, như vậy thời Ngươi là ai và Ta là ai mà Ngươi nói chuyện từ bỏ?
Evaṁ sante, moghapurisa, ko santo kaṁ paccācikkhasi?
Này kẻ ngu kia, hãy thấy sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là thế nào!
Passa, moghapurisa, yāvañca te idaṁ aparaddhan’ti.
Bạch Thế Tôn, nhưng Thế Tôn không khiến cho con chứng được các pháp thượng nhân thần thông.
‘Na hi pana me, bhante, bhagavā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karotī’ti.
Này Sunakkhatta, Ta có nói với Ngươi:
‘Api nu tāhaṁ, sunakkhatta, evaṁ avacaṁ—
“Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta! Ta sẽ khiến cho Ngươi chứng được các pháp thượng nhân thần thông” chăng?
ehi tvaṁ, sunakkhatta, mamaṁ uddissa viharāhi, ahaṁ te uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissāmī’ti?
Bạch Thế Tôn, không!
‘No hetaṁ, bhante’.
Ngươi có nói với Ta: “Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn. Thế Tôn sẽ khiến cho con chứng được các pháp thượng nhân thần thông” chăng?
‘Tvaṁ vā pana maṁ evaṁ avaca—”ahaṁ, bhante, bhagavantaṁ uddissa viharissāmi, bhagavā me uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissatī’ti”?
‘Bạch Thế Tôn, không!
‘No hetaṁ, bhante’.
Này Sunakkhatta, Ta không nói với Ngươi: “Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta, Ta sẽ khiến cho Ngươi chứng được các pháp thượng nhân thần thông;
‘Iti kira, sunakkhatta, nevāhaṁ taṁ vadāmi—”ehi tvaṁ, sunakkhatta, mamaṁ uddissa viharāhi, ahaṁ te uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissāmīti”;
Ngươi cũng không nói với Ta: “Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, và Thế Tôn sẽ khiến cho con chứng được các pháp thượng nhân thần thông.”
napi kira maṁ tvaṁ vadesi—”ahaṁ, bhante, bhagavantaṁ uddissa viharissāmi, bhagavā me uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissatīti”.
Này kẻ ngu kia, như vậy thời Ngươi là ai và Ta là ai mà Ngươi nói chuyện từ bỏ?
Evaṁ sante, moghapurisa, ko santo kaṁ paccācikkhasi?
Này Sunakkhatta, nhà Ngươi nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññasi, sunakkhatta?
Các pháp thượng nhân thần thông có thực hiện hay không thực hiện, nhưng mục đích mà Ta thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau, có phải như vậy không?
kate vā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriye akate vā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriye yassatthāya mayā dhammo desito so niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāyā’ti?
Bạch Thế Tôn, các pháp thượng nhân thần thông có thực hiện hay không thực hiện, nhưng mục đích mà Thế Tôn thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau, chính thật là như vậy.
‘Kate vā, bhante, uttari manussadhammā iddhipāṭihāriye akate vā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriye yassatthāya bhagavatā dhammo desito so niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāyā’ti.
‘Này Sunakkhatta, các pháp thượng nhân thần thông có thực hiện hay không thực hiện, nhưng mục đích mà Ta thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau.
‘Iti kira, sunakkhatta, kate vā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriye, akate vā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriye, yassatthāya mayā dhammo desito, so niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāya.
Này Sunakkhatta, như vậy thời các pháp thượng nhân thần thông là gì mà cần phải thực chứng?
Tatra, sunakkhatta, kiṁ uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ kataṁ karissati?
Này kẻ ngu kia, hãy thấy lỗi lầm của Ngươi như vậy là như thế nào!
Passa, moghapurisa, yāvañca te idaṁ aparaddhan’ti.
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không giải thích cho con khởi nguyên của thế giới.
‘Na hi pana me, bhante, bhagavā aggaññaṁ paññapetī’ti?
Này Sunakkhatta, Ta có nói với Ngươi: “Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta. Ta sẽ giải thích cho Ngươi khởi nguyên của Thế giới” chăng?
‘Api nu tāhaṁ, sunakkhatta, evaṁ avacaṁ—’ehi tvaṁ, sunakkhatta, mamaṁ uddissa viharāhi, ahaṁ te aggaññaṁ paññapessāmī’ti?
Bạch Thế Tôn, không!
‘No hetaṁ, bhante’.
Này Sunakkhatta, Ngươi có nói với Ta: “Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, rồi Thế Tôn sẽ giải thích cho con khởi nguyên của thế giới” chăng?
‘Tvaṁ vā pana maṁ evaṁ avaca—’ahaṁ, bhante, bhagavantaṁ uddissa viharissāmi, bhagavā me aggaññaṁ paññapessatī’ti?
Bạch Thế Tôn, không!
‘No hetaṁ, bhante’.
Này Sunakkhatta, như vậy Ta không nói với Ngươi: “Này Sunakkhatta, hãy đến đây và sống dưới sự chỉ dẫn của Ta. Ta sẽ giải thích cho Ngươi khởi nguyên của thế giới.”
‘Iti kira, sunakkhatta, nevāhaṁ taṁ vadāmi—’ehi tvaṁ, sunakkhatta, mamaṁ uddissa viharāhi, ahaṁ te aggaññaṁ paññapessāmīti.
Ngươi cũng không nói với Ta: “Bạch Thế Tôn, con sẽ sống dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, rồi Thế Tôn sẽ giải thích cho con khởi nguyên của thế giới.”
Napi kira maṁ tvaṁ vadesi—’ahaṁ, bhante, bhagavantaṁ uddissa viharissāmi, bhagavā me aggaññaṁ paññapessatīti.
Này kẻ ngu kia, sự kiện là như vậy, thời Ngươi là ai và Ta là ai mà Ngươi nói chuyện từ bỏ?
Evaṁ sante, moghapurisa, ko santo kaṁ paccācikkhasi?
Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññasi, sunakkhatta,
Khởi nguyên của thế giới có giải thích hay không giải thích, nhưng mục đích mà Ta thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau, có phải như vậy không?
paññatte vā aggaññe, apaññatte vā aggaññe, yassatthāya mayā dhammo desito, so niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāyā’ti?
Bạch Thế Tôn, khởi nguyên của thế giới có giải thích hay không giải thích, mục đích mà Thế Tôn thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau, chính thật là như vậy.
‘Paññatte vā, bhante, aggaññe, apaññatte vā aggaññe, yassatthāya bhagavatā dhammo desito, so niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāyā’ti.
Này Sunakkhatta, khởi nguyên của thế giới có giải thích hay không giải thích, mục đích của Thế Tôn thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau.
‘Iti kira, sunakkhatta, paññatte vā aggaññe, apaññatte vā aggaññe, yassatthāya mayā dhammo desito, so niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāya.
Này Sunakkhatta, như vậy thời giải thích về khởi nguyên thế giới có ích lợi gì cho Ngươi?
Tatra, sunakkhatta, kiṁ aggaññaṁ paññattaṁ karissati?
Này kẻ ngu kia, hãy thấy sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là thế nào!
Passa, moghapurisa, yāvañca te idaṁ aparaddhaṁ.
Này Sunakkhatta, dưới nhiều phương diện Ngươi đã nói lời tán thán Ta tại làng Vajji: “Như vậy, Thế Tôn là bậc A la hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.”
Anekapariyāyena kho te, sunakkhatta, mama vaṇṇo bhāsito vajjigāme—’itipi so bhagavā arahaṁ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṁ buddho bhagavāti.’
Này Sunakkhatta, như vậy dưới nhiều phương diện, Ngươi đã nói lời tán thán Ta tại làng Vajji.
Iti kho te, sunakkhatta, anekapariyāyena mama vaṇṇo bhāsito vajjigāme.
Này Sunakkhatta, dưới nhiều phương diện, Ngươi nói lời tán thán Pháp tại làng Vajji: “Chánh pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, chỉ người có trí mới thâm hiểu.”
Anekapariyāyena kho te, sunakkhatta, dhammassa vaṇṇo bhāsito vajjigāme—’svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṁ veditabbo viññūhīti.’
Này Sunakkhatta, như vậy dưới nhiều phương diện, Ngươi tán thán Chánh pháp tại làng Vajji.
Iti kho te, sunakkhatta, anekapariyāyena dhammassa vaṇṇo bhāsito vajjigāme.
Này Sunakkhatta, dưới nhiều phương diện, Ngươi đã tán thán Tăng tại làng Vajji: “Chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập về Chánh chơn, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập về Chánh trực, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập về Khuôn phép, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn khéo tu tập về Chánh hạnh, tức là bốn đôi tám chúng. Chư Tăng đệ tử của Thế Tôn này đáng được kính trọng, đáng được cung kính, đáng được cúng dường, đáng được chấp tay cúi chào, vì là phước điền tối thượng ở đời”.
Anekapariyāyena kho te, sunakkhatta, saṅghassa vaṇṇo bhāsito vajjigāme—’suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, ujuppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, ñāyappaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, sāmīcippaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, yadidaṁ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā, esa bhagavato sāvakasaṅgho, āhuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjalikaraṇīyo anuttaraṁ puññakkhettaṁ lokassāti.’
Này Sunakkhatta, như vậy dưới nhiều phương diện, Ngươi tán thán Tăng tại làng Vajji.
Iti kho te, sunakkhatta, anekapariyāyena saṅghassa vaṇṇo bhāsito vajjigāme.
“Này Sunakkhatta, Ta nói cho Ngươi biết; này Sunakkhatta ta tin cho Ngươi biết; sẽ có lời luận bàn về Ngươi như sau:
Ārocayāmi kho te, sunakkhatta, paṭivedayāmi kho te, sunakkhatta.
“Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi không thể sống phạm hạnh dưới sự hướng dẫn của Sa môn Gotama. Vì không kham nổi, nên từ bỏ tu học trở về với đời sống thấp kém”.
Bhavissanti kho te, sunakkhatta, vattāro, no visahi sunakkhatto licchaviputto samaṇe gotame brahmacariyaṁ carituṁ, so avisahanto sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattoti.
Này Sunakkhatta, sẽ có lời luận bàn về Ngươi như vậy.
Iti kho te, sunakkhatta, bhavissanti vattāro’ti.
Này Bhaggava, như vậy Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi dầu được Ta nói vậy, từ bỏ Pháp và Luật này, như người phải rớt vào đọa xứ, địa ngục.
Evaṁ kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto mayā vuccamāno apakkameva imasmā dhammavinayā, yathā taṁ āpāyiko nerayiko.
2. Câu Chuyện Về Korakkhattiya
2. Korakkhattiyavatthu
Này Bhaggava, một thời Ta ở bộ lạc Thūlū, tại thị trấn của bộ lạc Bumu tên là Uttarakā
Ekamidāhaṁ, bhaggava, samayaṁ thūlūsu viharāmi uttarakā nāma thūlūnaṁ nigamo.
Này Bhaggava, rồi buổi sáng Ta đắp y, cầm y bát cùng với Sa di Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi theo sau, vào thị trấn Uttarakā khất thực.
Atha khvāhaṁ, bhaggava, pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya sunakkhattena licchaviputtena pacchāsamaṇena uttarakaṁ piṇḍāya pāvisiṁ.
Lúc bấy giờ, lõa thể Korakkhattiya, tu theo hạnh chó đi bốn chân, bò lết trên đất, lấy miệng mà ăn đồ cứng hay đồ ăn mềm.
Tena kho pana samayena acelo korakkhattiyo kukkuravatiko catukkuṇḍiko chamānikiṇṇaṁ bhakkhasaṁ mukheneva khādati, mukheneva bhuñjati.
Này Bahaggava, Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi thấy lõa thể Korakkhattiya tu theo hạnh chó, đi bốn chân, bò lết trên đất, lấy miệng ăn đồ cứng hay đồ ăn mềm.
Addasā kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto acelaṁ korakkhattiyaṁ kukkuravatikaṁ catukkuṇḍikaṁ chamānikiṇṇaṁ bhakkhasaṁ mukheneva khādantaṁ mukheneva bhuñjantaṁ.
Liền suy nghĩ:
Disvānassa etadahosi:
“Thật tốt đẹp thay vị A la hán Sa môn đi bốn chân, bò lết trên đất, lấy miệng mà ăn đồ ăn cứng hay đồ ăn mềm”?
‘sādhurūpo vata bho ayaṁ samaṇo catukkuṇḍiko chamānikiṇṇaṁ bhakkhasaṁ mukheneva khādati, mukheneva bhuñjatī’ti.
Này Bhaggava, Ta biết được tâm tư của Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi với tâm tư của Ta cà Ta nói với ông ta như sau:
Atha khvāhaṁ, bhaggava, sunakkhattassa licchaviputtassa cetasā cetoparivitakkamaññāya sunakkhattaṁ licchaviputtaṁ etadavocaṁ:
Này kẻ ngu kia, có phải Ngươi vẫn tự nhận Ngươi là Thích Tử không?
‘tvampi nāma, moghapurisa, samaṇo sakyaputtiyo paṭijānissasī’ti.
Bạch Thế Tôn, sao Thế Tôn lại nói: “Này kẻ ngu kia, có phải Ngươi tự nhân Ngươi là Thích Tử không”?
‘Kiṁ pana maṁ, bhante, bhagavā evamāha: “tvampi nāma, moghapurisa, samaṇo sakyaputtiyo paṭijānissasī”’ti?
Này Sunakkhatta, có phải Ngươi, sau khi thấy lõa thể Korakkhattiya tu theo hạnh chó, đi bốn chân bò lết trên đất, lấy miệng mà ăn đồ ăn cứng hay đồ ăn mềm, liền suy nghĩ: “Thật tốt đẹp thay vị A la hán Sa môn đi bốn chân, bò lết trên đất, lấy miệng mà ăn đồ ăn cứng hay đồ ăn mềm”?
‘Nanu te, sunakkhatta, imaṁ acelaṁ korakkhattiyaṁ kukkuravatikaṁ catukkuṇḍikaṁ chamānikiṇṇaṁ bhakkhasaṁ mukheneva khādantaṁ mukheneva bhuñjantaṁ disvāna etadahosi:—’sādhurūpo vata bho ayaṁ samaṇo catukkuṇḍiko chamānikiṇṇaṁ bhakkhasaṁ mukheneva khādati, mukheneva bhuñjatī’ti?
Bạch Thế Tôn có vậy.
‘Evaṁ, bhante.
Bạch Thế Tôn, sao Thế Tôn lại ganh ghét với một bị A la hán?
Kiṁ pana, bhante, bhagavā arahattassa maccharāyatī’ti?
Này kẻ ngu kia, Ta đâu có ganh ghét với một vị A la hán?
‘Na kho ahaṁ, moghapurisa, arahattassa maccharāyāmi.
Chính Ngươi tự sinh ác tà kiến ấy, hãy bỏ nó đi.
Api ca tuyhevetaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ, taṁ pajaha.
Chớ để tự mình lâu ngày bị khổ đau thiệt hại.
Mā te ahosi dīgharattaṁ ahitāya dukkhāya.
Này Sunakkhtta, lõa thể Korakkhattiya mà Ngươi nghĩ là— tốt đẹp, là vị Sa môn, sau bảy ngày sẽ bị trúng thực mà chết.
Yaṁ kho panetaṁ, sunakkhatta, maññasi acelaṁ korakkhattiyaṁ—sādhurūpo ayaṁ samaṇoti. So sattamaṁ divasaṁ alasakena kālaṁ karissati.
sau khi chết sẽ tái sanh thuộc loại Kālakanjā, một trong loại Asura (A-tu-la) thấp kém nhất.
Kālaṅkato ca kālakañcikā nāma asurā sabbanihīno asurakāyo, tatra upapajjissati.
Sau khi chết, nó sẽ bị quăng trong nghĩa địa đặt trên đống cỏ Bīraṇa.
Kālaṅkatañca naṁ bīraṇatthambake susāne chaḍḍessanti.
Này Sunakkhatta, nếu Ngươi muốn, hãy đến hỏi lõa thể Korakkhattiya như sau:
Ākaṅkhamāno ca tvaṁ, sunakkhatta, acelaṁ korakkhattiyaṁ upasaṅkamitvā puccheyyāsi—
“Này bạn Korakkhattiya, bạn có biết bạn thác sanh cảnh giới nào không?”
jānāsi, āvuso korakkhattiya, attano gatinti?
Này Sunakkhatta, sự kiện này có thể xảy ra, lõa thể Korakkhatta ấy có thể trả lời với Ngươi:
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, sunakkhatta, vijjati yaṁ te acelo korakkhattiyo byākarissati—
“Này bạn Sunakkhatta, tôi biết cảnh giới thác sanh của tôi.
jānāmi, āvuso sunakkhatta, attano gatiṁ;
Tôi sẽ thác sanh thuộc loại Kālakanjā, một trong loại Asura thấp kém nhất”.
kālakañcikā nāma asurā sabbanihīno asurakāyo, tatrāmhi upapanno’ti.
Này Bhaggava, Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi, đi đến lõa thể Korakkhattiya và nói:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yena acelo korakkhattiyo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā acelaṁ korakkhattiyaṁ etadavoca:
Này bạn Korakkhattiya, Sa môn Gotama có nói như sau:
‘byākato khosi, āvuso korakkhattiya, samaṇena gotamena—
“Lõa thể Korakkhattiya sau bảy ngày sẽ bị trúng thực mà chết,
acelo korakkhattiyo sattamaṁ divasaṁ alasakena kālaṁ karissati.
sau khi chết sẽ tái sanh thuộc loại Kālakanjā, một trong loại Asura (A-tu-la) thấp kém nhất.
Kālaṅkato ca kālakañcikā nāma asurā sabbanihīno asurakāyo, tatra upapajjissati.
Sau khi chết, ông ta sẽ bị quăng trong nghĩa địa, đặt trên đống cỏ Bāraṇa”.
Kālaṅkatañca naṁ bīraṇatthambake susāne chaḍḍessantīti.
Này Bạn Korakkhattiya, vậy Bạn hãy ăn cho có tiết độ, vậy Bạn hãy uống cho có tiết độ,
Yena tvaṁ, āvuso korakkhattiya, mattaṁ mattañca bhattaṁ bhuñjeyyāsi, mattaṁ mattañca pānīyaṁ piveyyāsi.
để lời nói của Sa môn Gotama trở thành nói láo.”
Yathā samaṇassa gotamassa micchā assa vacanan’ti.
Này Bhaggava, vì không tin tưởng Như Lai, Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đếm từng ngày một cho đến bảy ngày.
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto ekadvīhikāya sattarattindivāni gaṇesi, yathā taṁ tathāgatassa asaddahamāno.
Nhưng này Bhaggava, lõa thể Korakkhattiya sau bảy ngày bị trúng thực mà chết.
Atha kho, bhaggava, acelo korakkhattiyo sattamaṁ divasaṁ alasakena kālamakāsi.
Sau khi chết, bị tái sanh thuộc loại Kālakanjā, một trong loại Asura thấp kém nhất.
kālaṅkato ca kālakañcikā nāma asurā sabbanihīno asurakāyo, tatra upapajji.
Sau khi chết, ông ta bị quăng trong nghĩa địa, đặt trên đống cỏ Bīrana.
kālaṅkatañca naṁ bīraṇatthambake susāne chaḍḍesuṁ.
Này Bhaggava, Sunakkhatta được nghe:
Assosi kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto:
“Lõa thể Korakkhattiya bị trúng thực chết, quăng trong nghĩa địa, đặt trên đống cỏ Bīrana.”
‘acelo kira korakkhattiyo alasakena kālaṅkato bīraṇatthambake susāne chaḍḍito’ti.
Này Bhaggava, Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi liền đi đến đống cỏ Bīrana tại nghĩa địa, đến lõa thể Korakkhattiya, lấy tay đánh ba lần và hỏi:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yena bīraṇatthambakaṁ susānaṁ, yena acelo korakkhattiyo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā acelaṁ korakkhattiyaṁ tikkhattuṁ pāṇinā ākoṭesi:
Này bạn Korakkhattiya, Bạn có biết cảnh giới thác sanh của Bạn không?”
‘jānāsi, āvuso korakkhattiya, attano gatin’ti?
Này Bhaggava, lõa thể Korakkhattiya lấy tay xoa lưng và ngồi dậy:
Atha kho, bhaggava, acelo korakkhattiyo pāṇinā piṭṭhiṁ paripuñchanto vuṭṭhāsi.
Này bạn Sunakkhatta, tôi biết cảnh giới thác sanh của tôi.
‘Jānāmi, āvuso sunakkhatta, attano gatiṁ.
Tôi thác sanh thuộc loại Kālakanjā, một trong loại Asura thấp kém nhất.” Sau khi nói xong, ông ta ngã ngửa xuống.
Kālakañcikā nāma asurā sabbanihīno asurakāyo, tatrāmhi upapanno’ti vatvā tattheva uttāno papati.
Này Bhaggava, rồi Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đến Ta, đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Này Bhaggava, Ta nói với Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đang ngồi một bên:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yenāhaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinnaṁ kho ahaṁ, bhaggava, sunakkhattaṁ licchaviputtaṁ etadavocaṁ:
Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào?
‘Taṁ kiṁ maññasi, sunakkhatta,
Ðiều Ta nói với Ngươi về lõa thể Korakkhattiya, có phải sự việc xảy ra như Ta nói không, hay là khác?
yatheva te ahaṁ acelaṁ korakkhattiyaṁ ārabbha byākāsiṁ, tatheva taṁ vipākaṁ, aññathā vā’ti?
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã nói với con về lõa thể Korakkhattiya như thế nào, sự việc xảy ra như Thế Tôn nói, không phải khác!
‘Yatheva me, bhante, bhagavā acelaṁ korakkhattiyaṁ ārabbha byākāsi, tatheva taṁ vipākaṁ, no aññathā’ti.
Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào?
‘Taṁ kiṁ maññasi, sunakkhatta,
Sự kiện là như vậy, thời có phải pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện có phải không?
yadi evaṁ sante kataṁ vā hoti uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ, akataṁ vā’ti?
Bạch Thế Tôn, sự kiện là như vậy, chắc chắn là pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện.
‘Addhā kho, bhante, evaṁ sante kataṁ hoti uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ, no akatan’ti.
Vậy này kẻ ngu kia, như vậy là pháp thượng nhân thần thông đã được Ta thực hiện, thế mà Ngươi nói: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không thực hiện pháp thượng nhân thần thông cho con.”
‘Evampi kho maṁ tvaṁ, moghapurisa, uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karontaṁ evaṁ vadesi:—’na hi pana me, bhante, bhagavā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karotīti.’
Này kẻ ngu kia, hãy thấy sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là thế nào!”
Passa, moghapurisa, yāvañca te idaṁ aparaddhan’ti.
Này Bhaggava, như vậy Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi được Ta nói như vậy, từ bỏ Pháp và Luật này, như người phải rơi vào đọa xứ, địa ngục.
Evampi kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto mayā vuccamāno apakkameva imasmā dhammavinayā, yathā taṁ āpāyiko nerayiko.
3. Câu Chuyện Về Loã Thể Kaḷāramaṭṭaka
3. Acelakaḷāramaṭṭakavatthu
Này Bhaggava, một thời, Ta trú tại Vesāli (Tỳ xá ly), rừng Ðại Lâm, ở Trùng Các giảng đường.
Ekamidāhaṁ, bhaggava, samayaṁ vesāliyaṁ viharāmi mahāvane kūṭāgārasālāyaṁ.
Lúc bấy giờ, lõa thể Kandaramasuka ở tại Vesāli được sự cúng dường tối thượng, được xưng danh tối thượng tại làng Vajji.
Tena kho pana samayena acelo kaḷāramaṭṭako vesāliyaṁ paṭivasati lābhaggappatto ceva yasaggappatto ca vajjigāme.
Vị này có phát nguyện tuân theo bảy giới hạnh:
Tassa sattavatapadāni samattāni samādinnāni honti:
‘”Trọn đời, ta theo hạnh lõa thể, không mặc quần áo; trọn đời, ta sống phạm hạnh, không có hành dâm; trọn đời ta tự nuôi sống với rượu và thịt, không phải với cháo cơm;
‘yāvajīvaṁ acelako assaṁ, na vatthaṁ paridaheyyaṁ, yāvajīvaṁ brahmacārī assaṁ, na methunaṁ dhammaṁ paṭiseveyyaṁ, yāvajīvaṁ surāmaṁseneva yāpeyyaṁ, na odanakummāsaṁ bhuñjeyyaṁ.
ta không bao giờ đi quá tháp Udana phía Ðông thành Vesāli; ta không bao giờ đi quá tháp Gotamaka, phía Nam thành Vesāli; ta không bao giờ đi quá tháp Sattamba, phía Tây thành Vesā; ta không bao giờ đi quá tháp Bahuputta, phía Bắc thành Vesāli.”
Puratthimena vesāliṁ udenaṁ nāma cetiyaṁ, taṁ nātikkameyyaṁ, dakkhiṇena vesāliṁ gotamakaṁ nāma cetiyaṁ, taṁ nātikkameyyaṁ, pacchimena vesāliṁ sattambaṁ nāma cetiyaṁ, taṁ nātikkameyyaṁ, uttarena vesāliṁ bahuputtaṁ nāma cetiyaṁ taṁ nātikkameyyan’ti.
Vị này, nhờ tuân theo bảy giới hạnh này mà được sự cúng dường tối thượng, được danh xưng tối thượng tại làng Vajji.
So imesaṁ sattannaṁ vatapadānaṁ samādānahetu lābhaggappatto ceva yasaggappatto ca vajjigāme.
Này Bhaggava, rồi Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đi đến lõa thể Kandaramasuka và hỏi câu hỏi;
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yena acelo kaḷāramaṭṭako tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā acelaṁ kaḷāramaṭṭakaṁ pañhaṁ apucchi.
lõa thể Kandaramasuka khi bị hỏi như vậy, không theo dõi câu hỏi,
Tassa acelo kaḷāramaṭṭako pañhaṁ puṭṭho na sampāyāsi.
vì không theo dõi, nên tỏ ra tức tối, giận dữ, phật ý.
Asampāyanto kopañca dosañca appaccayañca pātvākāsi.
Này Bhaggava, rồi Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi suy nghĩ:
Atha kho, bhaggava, sunakkhattassa licchaviputtassa etadahosi:
“Chúng ta có thể trở thành chống đối vị A la hán Sa môn tốt đẹp này.
‘sādhurūpaṁ vata bho arahantaṁ samaṇaṁ āsādimhase.
Hãy giữ đừng có gì xảy ra khiến chúng ta có thể bất lợi đau khổ lâu đời.”
Mā vata no ahosi dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyā’ti.
Này Bhaggava, rồi Sunakkhata, thuộc bộ lạc Licchavi đi đến Ta, đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Này Bahaggava, Ta nói với Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đang ngồi một bên:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yenāhaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinnaṁ kho ahaṁ, bhaggava, sunakkhattaṁ licchaviputtaṁ etadavocaṁ:
Này kẻ ngu kia, Ngươi vẫn tự nhận Ngươi là Thích tử không?
‘tvampi nāma, moghapurisa, samaṇo sakyaputtiyo paṭijānissasī’ti.
Bạch Thế Tôn, sao Thế Tôn lại nói với con như vậy: “Này kẻ ngu kia, Ngươi vẫn tự nhận Ngươi là Thích tử không?’
‘Kiṁ pana maṁ, bhante, bhagavā evamāha—tvampi nāma, moghapurisa, samaṇo sakyaputtiyo paṭijānissasī’ti?
Này Sunakkhatta, có phải Ngươi đã đi đến lõa thể Kandaramasuka và hỏi câu hỏi.
‘Nanu tvaṁ, sunakkhatta, acelaṁ kaḷāramaṭṭakaṁ upasaṅkamitvā pañhaṁ apucchi.
Lõa thể Kandaramasuka khi được Ngươi hỏi như vậy, không theo dõi câu hỏi;
Tassa te acelo kaḷāramaṭṭako pañhaṁ puṭṭho na sampāyāsi.
vì không theo dõi nên tỏ ra tức tối, giận dữ, phật ý.
Asampāyanto kopañca dosañca appaccayañca pātvākāsi.
Rồi ngươi tự nghĩ:
Tassa te etadahosi:
“Chúng ta có thể trở thành chống đối vị A la hán, Sa môn tốt đẹp này.
“sādhurūpaṁ vata bho arahantaṁ samaṇaṁ āsādimhase.
Hãy giữ đừng có có gì xảy ra khiến chúng có thể bất lợi đau khổ lâu đời!”.
Mā vata no ahosi dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyā”’ti.
Bạch Thế Tôn có vậy.
‘Evaṁ, bhante.
Bạch Thế Tôn, sao Thế Tôn lại ganh ghét với một vị A la hán?
Kiṁ pana, bhante, bhagavā arahattassa maccharāyatī’ti?
Này kẻ ngu kia, Ta đâu có ganh ghét với một vị A la hán!
‘Na kho ahaṁ, moghapurisa, arahattassa maccharāyāmi,
Chính Ngươi tự sanh ác tà kiến ấy, hãy từ bỏ nó đi.
api ca tuyhevetaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ, taṁ pajaha.
Chớ để mình lâu ngày bị thiệt hại đau khổ!
Mā te ahosi dīgharattaṁ ahitāya dukkhāya.
Này Sunakkhatta, lõa thể Kandaramasuka mà Ngươi nghĩ là vị A la hán,
Yaṁ kho panetaṁ, sunakkhatta, maññasi acelaṁ kaḷāramaṭṭakaṁ—
là vị Sa môn tốt đẹp, không bao lâu sẽ sống mặc áo và lập gia đình, sẽ ăn cơm cháo, sẽ đi vượt quá các tháp ở Vesāli và sẽ chết mất hết cả danh xưng”.
sādhurūpo ayaṁ samaṇoti, so nacirasseva parihito sānucāriko vicaranto odanakummāsaṁ bhuñjamāno sabbāneva vesāliyāni cetiyāni samatikkamitvā yasā nihīno kālaṁ karissatī’ti.
Này Bhaggava, lõa thể Kandaramasuka, không bao lâu sống mặc áo và lập gia đình, ăn dùng cơm cháo, đi vượt quá các tháp ở Vesàli và bị chết mất hết cả danh xưng.
Atha kho, bhaggava, acelo kaḷāramaṭṭako nacirasseva parihito sānucāriko vicaranto odanakummāsaṁ bhuñjamāno sabbāneva vesāliyāni cetiyāni samatikkamitvā yasā nihīno kālamakāsi.
Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi được nghe tin: lõa thể Kandaramasuka không bao lâu sống mặc áo và lập gia đình, ăn dùng cơm cháo, đi vượt quá các tháp ở Vesàli và bị chết mất hết danh xưng.
Assosi kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto: ‘acelo kira kaḷāramaṭṭako parihito sānucāriko vicaranto odanakummāsaṁ bhuñjamāno sabbāneva vesāliyāni cetiyāni samatikkamitvā yasā nihīno kālaṅkato’ti.
Này Bhaggava, rồi Sunakkhatta đi đến chỗ Ta ở, sau khi đến đảnh lễ Ta và ngồi xuống một bên. Này Bhaggava, và Ta nói với Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi đang ngồi một bên:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yenāhaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinnaṁ kho ahaṁ, bhaggava, sunakkhattaṁ licchaviputtaṁ etadavocaṁ:
Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào?
‘Taṁ kiṁ maññasi, sunakkhatta,
Ðiều Ta nói với Ngươi về lõa thể Kandaramasuka có phải sự việc xảy ra như Ta nói không, hay là khác?
yatheva te ahaṁ acelaṁ kaḷāramaṭṭakaṁ ārabbha byākāsiṁ, tatheva taṁ vipākaṁ, aññathā vā’ti?
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã nói với con về lõa thể Kandaramasuka như thế nào, sự việc xảy ra như Thế Tôn nói, không phải khác.
‘Yatheva me, bhante, bhagavā acelaṁ kaḷāramaṭṭakaṁ ārabbha byākāsi, tatheva taṁ vipākaṁ, no aññathā’ti.
Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào?
‘Taṁ kiṁ maññasi, sunakkhatta,
Sự kiện là như vậy, thời có phải là pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện, có phải không?
yadi evaṁ sante kataṁ vā hoti uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ akataṁ vā’ti?
Bạch Thế Tôn, sự kiện là như vậy, chắc chắn là pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện.
‘Addhā kho, bhante, evaṁ sante kataṁ hoti uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ, no akatan’ti.
Vậy này kẻ ngu kia, như vậy là pháp thượng nhân thần thông đã được Ta thực hiện, thế mà Ngươi nói:
‘Evampi kho maṁ tvaṁ, moghapurisa, uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karontaṁ evaṁ vadesi:
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không thực hiện pháp thượng nhân thần thông cho con.”
“na hi pana me, bhante, bhagavā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karotī”ti.
Này kẻ ngu kia, hãy thấy rõ sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là như thế nào!”
Passa, moghapurisa, yāvañca te idaṁ aparaddhan’ti.
Này Bhaggava, như vậy Sunakkhtta, thuộc bộ lạc Licchavi được Ta nói như vậy, từ bỏ Pháp và Luật này, như người phải rơi vào đọa xứ, địa ngục.
Evampi kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto mayā vuccamāno apakkameva imasmā dhammavinayā, yathā taṁ āpāyiko nerayiko.
4. Câu Chuyện Về Loã Thể Pāṭikaputta
4. Acelapāthikaputtavatthu
Này Bhaggava, một thời Ta trú ở Vesāli, rừng Ðại Lâm, tại Trùng Các giảng đường.
Ekamidāhaṁ, bhaggava, samayaṁ tattheva vesāliyaṁ viharāmi mahāvane kūṭāgārasālāyaṁ.
Lúc bấy giờ, lõa thể Pātikaputta sống ở Vesāli, được cúng dường tối thượng, được danh xưng tối thượng ở làng Vajji.
Tena kho pana samayena acelo pāthikaputto vesāliyaṁ paṭivasati lābhaggappatto ceva yasaggappatto ca vajjigāme.
Trong các buổi họp ở Vesāli, ông ta thường tuyên bố như sau:
So vesāliyaṁ parisati evaṁ vācaṁ bhāsati:
Sa môn Gotama là người có trí, ta cũng là người có trí.
‘samaṇopi gotamo ñāṇavādo, ahampi ñāṇavādo.
Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông của mình, nhờ trí lực của mình.
Ñāṇavādo kho pana ñāṇavādena arahati uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ dassetuṁ.
Nếu Sa môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường.
Samaṇo gotamo upaḍḍhapathaṁ āgaccheyya, ahampi upaḍḍhapathaṁ gaccheyyaṁ.
Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thượng nhân thần thông ở tại đây.
Te tattha ubhopi uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ kareyyāma.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp.
Ekañce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissati, dvāhaṁ karissāmi.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện hai pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện bốn pháp.
Dve ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, cattārāhaṁ karissāmi.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện bốn pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện tám pháp.
Cattāri ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, aṭṭhāhaṁ karissāmi.
Như vậy Sa môn Gotama thực hiện bao nhiều pháp thần thông thời ta sẽ thực hiện gấp hai lần.”
Iti yāvatakaṁ yāvatakaṁ samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissati, taddiguṇaṁ taddiguṇāhaṁ karissāmī’ti.
Này Bhaggava, Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đã đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta và ngồi xuống một bên. Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi bạch với Ta:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yenāhaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto maṁ etadavoca:
Bạch Thế Tôn, lõa thể Pāthikaputta (Ba-lê tử) sống ở Vesāli, được cúng dường tối thượng, được danh xưng tối thượng ở làng Vajji.
‘acelo, bhante, pāthikaputto vesāliyaṁ paṭivasati lābhaggappatto ceva yasaggappatto ca vajjigāme.
Trong buổi họp ở Vesāli, thường tuyên bố như sau:
So vesāliyaṁ parisati evaṁ vācaṁ bhāsati:
“Sa môn Gotama là người có trí, ta cũng là người có trí.
“samaṇopi gotamo ñāṇavādo, ahampi ñāṇavādo.
Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông nhờ trí lực của mình.
Ñāṇavādo kho pana ñāṇavādena arahati uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ dassetuṁ.
Nếu Sa môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường.
Samaṇo gotamo upaḍḍhapathaṁ āgaccheyya, ahampi upaḍḍhapathaṁ gaccheyyaṁ.
Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thần thông ở tại đây.
Te tattha ubhopi uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ kareyyāma.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp.
Ekañce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissati, dvāhaṁ karissāmi.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện hai pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện bốn pháp.
Dve ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, cattārāhaṁ karissāmi.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện bốn pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện tám pháp.
Cattāri ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, aṭṭhāhaṁ karissāmi.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp.
Iti yāvatakaṁ yāvatakaṁ samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissati, taddiguṇaṁ taddiguṇāhaṁ karissāmī”’ti.
Này Bhaggava, khi nghe nói vậy, Ta nói với Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi:
Evaṁ vutte, ahaṁ, bhaggava, sunakkhattaṁ licchaviputtaṁ etadavocaṁ:
Này Sunakkhatta, lõa thể Pāthikaputta không có thể đến gặp mặt Ta nếu ông ấy không từ bỏ lời ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
‘abhabbo kho, sunakkhatta, acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng—
Sacepissa evamassa—
ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ta sẽ bị bể tan.
ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti.
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thận trọng lời nói! Thiện Thệ hãy thận trọng lời nói!
‘Rakkhatetaṁ, bhante, bhagavā vācaṁ, rakkhatetaṁ sugato vācan’ti.
Này Sunakkhatta, tại sao Ngươi lại nói với Ta: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thận trọng lời nói.”?
‘Kiṁ pana maṁ tvaṁ, sunakkhatta, evaṁ vadesi—rakkhatetaṁ, bhante, bhagavā vācaṁ, rakkhatetaṁ sugato vācan’ti?
Bạch Thế Tôn, lời nói này đã được Thế Tôn tuyên bố một cách cực đoan:
‘Bhagavatā cassa, bhante, esā vācā ekaṁsena odhāritā—
“Lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
abhabbo acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng—
Sacepissa evamassa—
ông ấy sẽ đến gặp Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu ông ấy sẽ bị bể tan”!
ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyāti.
Bạch Thế Tôn, lõa thể Pāthikaputta có thể đến gặp mặt Thế Tôn với một hóa thân khác, và như vậy Thế Tôn trở thành nói không thật!
Acelo ca, bhante, pāthikaputto virūparūpena bhagavato sammukhībhāvaṁ āgaccheyya, tadassa bhagavato musā’ti.
Này Sunakkhatta, Như Lai có bao giờ nói lời nói nào có hai nghĩa không?
‘Api nu, sunakkhatta, tathāgato taṁ vācaṁ bhāseyya yā sā vācā dvayagāminī’ti?
Bạch Thế Tôn, có phải do tự tâm phán xét mà Thế Tôn đã được biết về Pāthikaputta: “Lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
‘Kiṁ pana, bhante, bhagavatā acelo pāthikaputto cetasā ceto paricca vidito—abhabbo acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng—ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan”.
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyāti?
Hay là có vị Thiên thần nào đã báo tin cho Như Lai biết: Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Thế Tôn, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
Udāhu, devatā bhagavato etamatthaṁ ārocesuṁ—abhabbo, bhante, acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā bhagavato sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng—ông ấy sẽ đến gặp Thế Tôn mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu ông ấy sẽ bị bể tan”!
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti?
Này Sunakkhatta, chính tự tâm phán xét mà ta đã biết về lõa thể Pātikaputta:
‘Cetasā ceto paricca vidito ceva me, sunakkhatta, acelo pāthikaputto—
“Lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
abhabbo acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng—ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan”.
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyāti.
Và cũng có vị Thiên thần đã báo tin cho Ta biết: “Lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Thế Tôn, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
Devatāpi me etamatthaṁ ārocesuṁ—abhabbo, bhante, acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā bhagavato sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng—ông ấy sẽ đến gặp Thế Tôn mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu ông ấy sẽ bị bể tan”!
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyāti.
Vị tướng quân ở bộ lạc Licchavi tên là Ajita, khi mệnh chung vào ngày kia đã được sanh vào Tam thập tam thiên.
Ajitopi nāma licchavīnaṁ senāpati adhunā kālaṅkato tāvatiṁsakāyaṁ upapanno.
Rồi vị ấy đến bạch với Ta:
Sopi maṁ upasaṅkamitvā evamārocesi—
“Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta không có tàm quý!
alajjī, bhante, acelo pāthikaputto;
Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta không nói sự thật!
musāvādī, bhante, acelo pāthikaputto.
Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta đã nói về con, ở giữa làng Vajji như sau:
Mampi, bhante, acelo pāthikaputto byākāsi vajjigāme—
Tướng quân ở bộ lạc Licchavi tên là Ajita sẽ thác sanh vào Ðại địa ngục,
ajito licchavīnaṁ senāpati mahānirayaṁ upapannoti.
Bạch Thế Tôn, con không thác sanh vào Ðại địa ngục,
Na kho panāhaṁ, bhante, mahānirayaṁ upapanno;
Bạch Thế Tôn, con được sanh vào cõi Tam thập tam thiên!
tāvatiṁsakāyamhi upapanno.
Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta không có tàm quý.
Alajjī, bhante, acelo pāthikaputto;
Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta không nói sự thật!
musāvādī, bhante, acelo pāthikaputto;
Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Thế Tôn, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
abhabbo ca, bhante, acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā bhagavato sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng—ông ấy sẽ đến gặp Thế Tôn mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu ông ấy sẽ bị bể tan”!
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyāti.
Này Sunakkhatta, như vậy chính tự tâm phán xét mà Ta biết về lõa thể Pātikaputta. Lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
Iti kho, sunakkhatta, cetasā ceto paricca vidito ceva me acelo pāthikaputto abhabbo acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyāti.
Và một vị thiên Thần đã báo tin cho ta biết: “Bạch Thế Tôn, lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Thế Tôn nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
Devatāpi me etamatthaṁ ārocesuṁ—abhabbo, bhante, acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā bhagavato sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông nghĩ rằng ông ấy sẽ đến gặp mặt Thế Tôn mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.”
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyāti.
Này Sunakkhatta, sau khi Ta đi khất thực ở Vesāli, ăn xong và khất thực trở về, Ta sẽ đến tại vườn Pātikaputta để nghỉ trưa.
So kho panāhaṁ, sunakkhatta, vesāliyaṁ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṁ piṇḍapātapaṭikkanto yena acelassa pāthikaputtassa ārāmo tenupasaṅkamissāmi divāvihārāya.
Này Sunakkhatta, nếu Ngươi muốn, hãy tin cho ông ấy biết.”
Yassadāni tvaṁ, sunakkhatta, icchasi, tassa ārocehī’ti.
5. Thị Hiện Thần Thông
5. Iddhipāṭihāriyakathā
Này Bhaggava, rồi Ta đắp y vào buổi sáng, cầm y bát vào thành Vesāli để khất thực.
Atha khvāhaṁ, bhaggava, pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya vesāliṁ piṇḍāya pāvisiṁ.
Sau khi đi khất thực, ăn xong và đi khất thực trở về, Ta đi đến vườn của Pātikaputta để nghỉ trưa.
Vesāliyaṁ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṁ piṇḍapātapaṭikkanto yena acelassa pāthikaputtassa ārāmo tenupasaṅkamiṁ divāvihārāya.
Này Bhaggava, Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi vội vàng vào thành Vesāli, đến những Licchava có danh tiếng và báo tin cho những vị ấy biết:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto taramānarūpo vesāliṁ pavisitvā yena abhiññātā abhiññātā licchavī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā abhiññāte abhiññāte licchavī etadavoca:
Này Hiền giả, Thế Tôn sau khi khất thực, ăn xong và đi khất thực trở về, đã đi đến vườn của Pātikaputta để nghỉ trưa!
‘esāvuso, bhagavā vesāliyaṁ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṁ piṇḍapātapaṭikkanto yena acelassa pāthikaputtassa ārāmo tenupasaṅkami divāvihārāya.
Mong quý vị hãy đến! Mong quý vị hãy đến! Sẽ có biểu diễn pháp thượng nhân thần thông giữa các vị Sa môn thiện xảo.”
Abhikkamathāyasmanto abhikkamathāyasmanto, sādhurūpānaṁ samaṇānaṁ uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ bhavissatī’ti.
Này Bhaggava, các Licchavi có danh tiếng suy nghĩ như sau:
Atha kho, bhaggava, abhiññātānaṁ abhiññātānaṁ licchavīnaṁ etadahosi:
“Sẽ có biểu diễn pháp thượng nhân thần thông giữa các vị Sa môn thiện xảo.
‘sādhurūpānaṁ kira, bho, samaṇānaṁ uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ bhavissati;
Vậy chúng ta hãy đi đến đó.”
handa vata, bho, gacchāmā’ti.
Và chỗ nào có những Bà la môn có địa vị, những gia chủ giàu sang, các Bà la môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng, ông ta đi đến các vị này và báo tin cho biết:
Yena ca abhiññātā abhiññātā brāhmaṇamahāsālā gahapatinecayikā nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā tenupasaṅkami. upasaṅkamitvā abhiññāte abhiññāte nānātitthiye samaṇabrāhmaṇe etadavoca:
Này Hiền giả, Thế Tôn sau khi đi khất thực, ăn xong và đi khất thực trở về, đã đi đến vườn của Pātikaputta để nghỉ trưa.
‘esāvuso, bhagavā vesāliyaṁ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṁ piṇḍapātapaṭikkanto yena acelassa pāthikaputtassa ārāmo tenupasaṅkami divāvihārāya.
Mong quý vị hãy đến! Mong quý vị hãy đến! Sẽ có biểu diễn pháp thượng nhân thần thông giữa các vị Sa môn thiện xảo.”
Abhikkamathāyasmanto abhikkamathāyasmanto, sādhurūpānaṁ samaṇānaṁ uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ bhavissatī’ti.
Này Bhaggava, các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng suy nghĩ:
Atha kho, bhaggava, abhiññātānaṁ abhiññātānaṁ nānātitthiyānaṁ samaṇabrāhmaṇānaṁ etadahosi:
“Sẽ có biểu diễn pháp thượng nhân thần thông giữa các vị Sa môn thiện xảo.
‘sādhurūpānaṁ kira, bho, samaṇānaṁ uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ bhavissati;
Vậy chúng ta hãy đi đến đó.”
handa vata, bho, gacchāmā’ti.
Này Bhaggava, rồi các Licchavi có danh tiếng, các Bà la môn có địa vị, các Gia chủ giàu sang, các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng cùng đi đến vườn của Pātikaputta.
Atha kho, bhaggava, abhiññātā abhiññātā licchavī, abhiññātā abhiññātā ca brāhmaṇamahāsālā gahapatinecayikā nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā yena acelassa pāthikaputtassa ārāmo tenupasaṅkamiṁsu.
Này Bhaggava, như vậy Hội chúng này lên đến hàng trăm hàng ngàn người.
Sā esā, bhaggava, parisā mahā hoti anekasatā anekasahassā.
Này Bhaggava, lõa thể Pātikaputta được nghe:
Assosi kho, bhaggava, acelo pāthikaputto:
“Các Licchavi danh tiếng đã đến, các Bà la môn có địa vị, các gia chủ giàu sang, các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng cũng đã đến,
‘abhikkantā kira abhiññātā abhiññātā licchavī, abhikkantā abhiññātā abhiññātā ca brāhmaṇamahāsālā gahapatinecayikā nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā.
còn Sa môn Gotama thì ngồi nghỉ trưa tại vườn của ta.”
Samaṇopi gotamo mayhaṁ ārāme divāvihāraṁ nisinno’ti.
Khi nghe vậy ông ấy hoảng sợ, run rẩy, lông tóc dựng ngược.
Sutvānassa bhayaṁ chambhitattaṁ lomahaṁso udapādi.
Này Bhaggava, lõa thể Pātikaputta hoảng sợ, run rẩy, lông tóc dựng ngược, liền đi đến vườn các du sĩ Tindukkhānu.
Atha kho, bhaggava, acelo pāthikaputto bhīto saṁviggo lomahaṭṭhajāto yena tindukakhāṇuparibbājakārāmo tenupasaṅkami.
Này Bhaggava, Hội chúng ấy được nghe:
Assosi kho, bhaggava, sā parisā:
“Lõa thể Pātikaputta hoảng sợ, run rẩy, lông tóc dựng ngược đã đi đến vườn các du sĩ Tindukkhānu.”
‘acelo kira pāthikaputto bhīto saṁviggo lomahaṭṭhajāto yena tindukakhāṇuparibbājakārāmo tenupasaṅkanto’ti.
Này Bhaggava, Hội chúng liền cho gọi một người và bảo:
Atha kho, bhaggava, sā parisā aññataraṁ purisaṁ āmantesi:
Này bạn hãy đi đến vườn các du sĩ Tindukkhānu, gặp lõa thể Pātikaputta và nói như sau:
‘Ehi tvaṁ, bho purisa, yena tindukakhāṇuparibbājakārāmo, yena acelo pāthikaputto tenupasaṅkama. upasaṅkamitvā acelaṁ pāthikaputtaṁ evaṁ vadehi:
“Này bạn Pātikaputta hãy đến. Các Licchavi danh tiếng đã đến, các Bà la môn có địa vị, các Gia chủ giàu sang, các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng cũng đã đến. Sa môn Gotama đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả.
“abhikkamāvuso, pāthikaputta, abhikkantā abhiññātā abhiññātā licchavī, abhikkantā abhiññātā abhiññātā ca brāhmaṇamahāsālā gahapatinecayikā nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā, samaṇopi gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṁ nisinno;
Này Hiền giả Pātikaputta, lời nói sau đây được Hiền giả nói tại Hội chúng ở Vesāli:
bhāsitā kho pana te esā, āvuso pāthikaputta, vesāliyaṁ parisati vācā
“Sa môn là người có trí, ta cũng là người có trí.
samaṇopi gotamo ñāṇavādo, ahampi ñāṇavādo.
Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông nhờ trí lực của mình.
Ñāṇavādo kho pana ñāṇavādena arahati uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ dassetuṁ.
Nếu Sa môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường.
Samaṇo gotamo upaḍḍhapathaṁ āgaccheyya ahampi upaḍḍhapathaṁ gaccheyyaṁ.
Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thượng nhân thần thông ở tại đây.
Te tattha ubhopi uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ kareyyāma.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp.
Ekañce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissati, dvāhaṁ karissāmi.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện hai pháp thượng thần thông, thời ta sẽ thực hiện bốn pháp.
Dve ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, cattārāhaṁ karissāmi.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện bốn pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện tám pháp.
Cattāri ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, aṭṭhāhaṁ karissāmi.
Như vậy Sa môn Gotama thực hiện bao nhiêu pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện gấp hai lần.
Iti yāvatakaṁ yāvatakaṁ samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissati, taddiguṇaṁ taddiguṇāhaṁ karissāmī”ti
“Này Hiền giả Pātikaputta, hãy chịu đi nửa đường.
abhikkamasseva kho āvuso pāthikaputta, upaḍḍhapathaṁ.
Sa môn Gotama đã đi hết tất cả nửa đường rồi và đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả!”.
Sabbapaṭhamaṁyeva āgantvā samaṇo gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṁ nisinno’ti.
Này Bhaggava, người ấy vâng theo lời Hội chúng ấy, đi đến vườn các du sĩ Tindukkhānu, gặp lõa thể Pātikaputta, sau khi gặp xong, liền thưa:
Evaṁ, bhoti kho, bhaggava, so puriso tassā parisāya paṭissutvā yena tindukakhāṇuparibbājakārāmo, yena acelo pāthikaputto tenupasaṅkami. upasaṅkamitvā acelaṁ pāthikaputtaṁ etadavoca:
“Này bạn Pātikaputta hãy đến. Các Licchavi danh tiếng đã đến, các Bà la môn có địa vị, các Gia chủ giàu sang, các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng cũng đã đến.
‘abhikkamāvuso pāthikaputta, abhikkantā abhiññātā abhiññātā licchavī, abhikkantā abhiññātā abhiññātā ca brāhmaṇamahāsālā gahapatinecayikā nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā.
Sa môn Gotama đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả.
Samaṇopi gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṁ nisinno.
Này Hiền giả Pātikaputta, lời nói sau đây được Hiền giả nói tại Hội chúng ở Vesāli:
Bhāsitā kho pana te esā, āvuso pāthikaputta, vesāliyaṁ parisati vācā—
“Sa môn là người có trí, ta cũng là người có trí.
samaṇopi gotamo ñāṇavādo; ahampi ñāṇavādo.
Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông nhờ trí lực của mình.
Ñāṇavādo kho pana ñāṇavādena arahati uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ dassetuṁ.
Nếu Sa môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường.
Samaṇo gotamo upaḍḍhapathaṁ āgaccheyya ahampi upaḍḍhapathaṁ gaccheyyaṁ.
Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thượng nhân thần thông ở tại đây.
Te tattha ubhopi uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ kareyyāma.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp.
Ekañce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissati, dvāhaṁ karissāmi.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện hai pháp thượng thần thông, thời ta sẽ thực hiện bốn pháp.
Dve ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, cattārāhaṁ karissāmi.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện bốn pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện tám pháp.
Cattāri ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, aṭṭhāhaṁ karissāmi.
Như vậy Sa môn Gotama thực hiện bao nhiêu pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện gấp hai lần.
Iti yāvatakaṁ yāvatakaṁ samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissati, taddiguṇaṁ taddiguṇāhaṁ karissāmī”ti
“Này Hiền giả Pātikaputta, hãy chịu đi nửa đường.
Abhikkamasseva kho, āvuso pāthikaputta, upaḍḍhapathaṁ.
Sa môn Gotama đã đi hết tất cả nửa đường rồi và đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả!”.
Sabbapaṭhamaṁyeva āgantvā samaṇo gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṁ nisinno’ti.
Này Bhaggava, khi nghe nói vậy, lõa thể Pātikaputta trả lời: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”. Nhưng ông ấy như trườn bò qua lại tại chỗ, không thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi.
Evaṁ vutte, bhaggava, acelo pāthikaputto ‘āyāmi, āvuso, āyāmi, āvuso’ti vatvā tattheva saṁsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātuṁ.
Này Bhaggava, người ấy nói với lõa thể Pātikaputta:
Atha kho so, bhaggava, puriso acelaṁ pāthikaputtaṁ etadavoca:
Này Hiền giả Pātikaputta sao lại như vậy? Hình như mông của Hiền giả dính liền vào ghế, hay ghế dính liền vào mông của Hiền giả?
‘kiṁ su nāma te, āvuso pāthikaputta, pāvaḷā su nāma te pīṭhakasmiṁ allīnā, pīṭhakaṁ su nāma te pāvaḷāsu allīnaṁ?
“Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”. Tuy nói vậy nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi.
Āyāmi āvuso, āyāmi āvusoti vatvā tattheva saṁsappasi, na sakkosi āsanāpi vuṭṭhātun’ti.
Này Bhaggava, được nói vậy, lõa thể Pāthikaputta tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”; nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi.
Evampi kho, bhaggava, vuccamāno acelo pāthikaputto ‘āyāmi, āvuso, āyāmi, āvuso’ti vatvā tattheva saṁsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātuṁ.
Này Bhaggava, khi người ấy biết:
Yadā kho so, bhaggava, puriso aññāsi:
lõa thể Pāthikaputta này đã bị thảm hại,
‘parābhūtarūpo ayaṁ acelo pāthikaputto.
tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, lại trườn bò qua lại tại chỗ, không thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi.
Āyāmi, āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṁsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātun’ti.
Người ấy liền đến Hội chúng ấy báo tin:
Atha taṁ parisaṁ āgantvā evamārocesi:
Lõa thể Pātikaputta đã thảm bại, tuy nói:
‘parābhūtarūpo, bho, acelo pāthikaputto.
“Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, lại trườn bò qua lại, không thể đứng dậy khỏi chỗ ngồi.”
Āyāmi, āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṁsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātun’ti.
Này Bhaggava, khi nghe vậy Ta nói Hội chúng:
Evaṁ vutte, ahaṁ, bhaggava, taṁ parisaṁ etadavocaṁ:
Này các Hiền giả, lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
‘abhabbo kho, āvuso, acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng— ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.”
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti.
Dứt tụng phẩm thứ nhất.
Paṭhamabhāṇavāro niṭṭhito.
Này Bhaggava, một vị đại thần Licchavi, từ chỗ ngồi đứng dậy, nói với Hội chúng ấy:
Atha kho, bhaggava, aññataro licchavimahāmatto uṭṭhāyāsanā taṁ parisaṁ etadavoca:
Các Hiền giả hãy chờ một lát, để tôi đi,
‘tena hi, bho, muhuttaṁ tāva āgametha, yāvāhaṁ gacchāmi.
xem có thể đưa lõa thể Pāthikaputta đến Hội chúng này không?
Appeva nāma ahampi sakkuṇeyyaṁ acelaṁ pāthikaputtaṁ imaṁ parisaṁ ānetun’ti.
Này Bhaggava, rồi vị đại thần Licchavi ấy đi đến vườn các du sĩ Tindukkhānu, gặp mặt lõa thể Pātikaputta và nói với ông ấy:
Atha kho so, bhaggava, licchavimahāmatto yena tindukakhāṇuparibbājakārāmo, yena acelo pāthikaputto tenupasaṅkami. upasaṅkamitvā acelaṁ pāthikaputtaṁ etadavoca:
Này bạn Pātikaputta hãy đến! Các Licchavi danh tiếng đã đến, và các Bà la môn có địa vị, các Gia chủ giàu sang, các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng cũng đã đến; còn Sa môn Gotama đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả.
‘abhikkamāvuso pāthikaputta, abhikkantaṁ te seyyo, abhikkantā abhiññātā abhiññātā licchavī, abhikkantā abhiññātā abhiññātā ca brāhmaṇamahāsālā gahapatinecayikā nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā. Samaṇopi gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṁ nisinno.
Này Hiền giả Pātikaputta, Hiền giả đã tuyên bố giữa Hội chúng Vesāli:
Bhāsitā kho pana te esā, āvuso pāthikaputta, vesāliyaṁ parisati vācā—
“Sa môn là người có trí, ta cũng là người có trí.
samaṇopi gotamo ñāṇavādo; ahampi ñāṇavādo.
Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông nhờ trí lực của mình.
Ñāṇavādo kho pana ñāṇavādena arahati uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ dassetuṁ.
Nếu Sa môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường.
Samaṇo gotamo upaḍḍhapathaṁ āgaccheyya ahampi upaḍḍhapathaṁ gaccheyyaṁ.
Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thượng nhân thần thông ở tại đây.
Te tattha ubhopi uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ kareyyāma.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp.
Ekañce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissati, dvāhaṁ karissāmi.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện hai pháp thượng thần thông, thời ta sẽ thực hiện bốn pháp.
Dve ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, cattārāhaṁ karissāmi.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện bốn pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện tám pháp.
Cattāri ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, aṭṭhāhaṁ karissāmi.
Như vậy Sa môn Gotama thực hiện bao nhiêu pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện gấp hai lần.
Iti yāvatakaṁ yāvatakaṁ samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissati, taddiguṇaṁ taddiguṇāhaṁ karissāmī”ti
“Này Hiền giả Pātikaputta, hãy chịu đi nửa đường.
Abhikkamasseva kho, āvuso pāthikaputta, upaḍḍhapathaṁ.
Sa môn Gotama đã đi hết tất cả nửa đường rồi và đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả!”.
Sabbapaṭhamaṁyeva āgantvā samaṇo gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṁ nisinno’ti.
Này Hiền giả Pātikaputta, Sa môn Gotama đã nói với Hội chúng về Hiền giả như sau:
Bhāsitā kho panesā, āvuso pāthikaputta, samaṇena gotamena parisati vācā—
Này các Hiền giả, lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
‘abhabbo kho, āvuso, acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng— ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.”
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti.
Này Hiền giả Pātikaputta hãy đến! Nếu Hiền giả đến, chúng tôi sẽ làm cho Hiền giả thắng và làm cho Sa môn Gotama thất bại.”
Abhikkamāvuso pāthikaputta, abhikkamaneneva te jayaṁ karissāma, samaṇassa gotamassa parājayan’ti.
Này Bhaggava, khi được nghe nói vậy, lõa thể Pātikaputta, tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng trườn bò qua lại tại chỗ, không thể từ chỗ ngồi đứng dậy.
Evaṁ vutte, bhaggava, acelo pāthikaputto ‘āyāmi, āvuso, āyāmi, āvuso’ti vatvā tattheva saṁsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātuṁ.
Này Bhaggava, vị đại thần Licchavi liền nói với lõa thể Pātikaputta:
Atha kho so, bhaggava, licchavimahāmatto acelaṁ pāthikaputtaṁ etadavoca:
Này Hiền giả Pātikaputta, sao lại vậy? Hình như mông của Hiền giả dính liền vào ghế, hay ghế dính liền vào mông của Hiền giả.
‘kiṁ su nāma te, āvuso pāthikaputta, pāvaḷā su nāma te pīṭhakasmiṁ allīnā, pīṭhakaṁ su nāma te pāvaḷāsu allīnaṁ?
Tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng Hiền giả trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.”
Āyāmi, āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṁsappasi, na sakkosi āsanāpi vuṭṭhātun’ti.
Này Bhaggava, khi được nói vậy, lõa thể Pātikaputta tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.
Evampi kho, bhaggava, vuccamāno acelo pāthikaputto ‘āyāmi, āvuso, āyāmi, āvuso’ti vatvā tattheva saṁsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātuṁ.
Này Bhaggava, khi vị đại thần Licchavi biết được:
Yadā kho so, bhaggava, licchavimahāmatto aññāsi:
Lõa thể Pāthikaputta này đã bị thảm bại, tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.
‘parābhūtarūpo ayaṁ acelo pāthikaputto āyāmi, āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṁsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātun’ti.
Người ấy liền đến Hội chúng ấy báo tin:
Atha taṁ parisaṁ āgantvā evamārocesi:
“Lõa thể Pātikaputta đã thảm bại, tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.”
‘parābhūtarūpo, bho, acelo pāthikaputto āyāmi, āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṁsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātun’ti.
Này Bhaggava, khi nghe nói vậy, Ta nói với Hội chúng ấy:
Evaṁ vutte, ahaṁ, bhaggava, taṁ parisaṁ etadavocaṁ:
Này các Hiền giả, lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
‘abhabbo kho, āvuso, acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng— ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.”
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyya.
Nếu quí vị Licchavi nghĩ rằng:
Sace pāyasmantānaṁ licchavīnaṁ evamassa—
“Chúng ta hãy cột lõa thể Pātikaputta với dây thừng, và dùng bò kéo ông ấy lại đây, Pātikaputta sẽ bứt đứt dây thừng ấy.
mayaṁ acelaṁ pāthikaputtaṁ varattāhi bandhitvā goyugehi āviñcheyyāmāti, tā varattā chijjeyyuṁ pāthikaputto vā.
Lõa thể Pātikaputta không có thể, nếu không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
Abhabbo pana acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng— ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.”
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti.
Này Bhaggava, lúc ấy Jāliya, đệ tử của Dārupatti, từ chỗ ngồi đứng dậy và nói với Hội chúng ấy:
Atha kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī uṭṭhāyāsanā taṁ parisaṁ etadavoca:
“Các Hiền giả hãy chờ một lát; để tôi đi xem có thể đưa lõa thể Pātikaputta đến Hội chúng này hay không?”
‘tena hi, bho, muhuttaṁ tāva āgametha, yāvāhaṁ gacchāmi; appeva nāma ahampi sakkuṇeyyaṁ acelaṁ pāthikaputtaṁ imaṁ parisaṁ ānetun’ti.
Này Bhaggava, rồi Jāliya, đệ tử của Dārupatti đi đến vườn các du sĩ Tindukkhānu, gặp mặt lõa thể Pātikaputta và nói với ông ấy:
Atha kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī yena tindukakhāṇuparibbājakārāmo, yena acelo pāthikaputto tenupasaṅkami. upasaṅkamitvā acelaṁ pāthikaputtaṁ etadavoca:
Này bạn Pātikaputta hãy đến! Các Licchavi danh tiếng đã đến, và các Bà la môn có địa vị, các Gia chủ giàu sang, các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo có danh tiếng cũng đã đến; còn Sa môn Gotama đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả.
‘abhikkamāvuso pāthikaputta, abhikkantaṁ te seyyo, abhikkantā abhiññātā abhiññātā licchavī, abhikkantā abhiññātā abhiññātā ca brāhmaṇamahāsālā gahapatinecayikā nānātitthiyā samaṇabrāhmaṇā. Samaṇopi gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṁ nisinno.
Này Hiền giả Pātikaputta, Hiền giả đã tuyên bố giữa Hội chúng Vesāli:
Bhāsitā kho pana te esā, āvuso pāthikaputta, vesāliyaṁ parisati vācā—
“Sa môn là người có trí, ta cũng là người có trí.
samaṇopi gotamo ñāṇavādo; ahampi ñāṇavādo.
Người có trí có thể trình bày pháp thượng nhân thần thông nhờ trí lực của mình.
Ñāṇavādo kho pana ñāṇavādena arahati uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ dassetuṁ.
Nếu Sa môn Gotama chịu đi nửa đường, ta chịu đi nửa đường.
Samaṇo gotamo upaḍḍhapathaṁ āgaccheyya ahampi upaḍḍhapathaṁ gaccheyyaṁ.
Và hai chúng ta có thể thực hiện pháp thượng nhân thần thông ở tại đây.
Te tattha ubhopi uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ kareyyāma.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện một pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện hai pháp.
Ekañce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissati, dvāhaṁ karissāmi.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện hai pháp thượng thần thông, thời ta sẽ thực hiện bốn pháp.
Dve ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, cattārāhaṁ karissāmi.
Nếu Sa môn Gotama thực hiện bốn pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện tám pháp.
Cattāri ce samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyāni karissati, aṭṭhāhaṁ karissāmi.
Như vậy Sa môn Gotama thực hiện bao nhiêu pháp thượng nhân thần thông, thời ta sẽ thực hiện gấp hai lần.
Iti yāvatakaṁ yāvatakaṁ samaṇo gotamo uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karissati, taddiguṇaṁ taddiguṇāhaṁ karissāmī”ti
“Này Hiền giả Pātikaputta, hãy chịu đi nửa đường.
Abhikkamasseva kho, āvuso pāthikaputta, upaḍḍhapathaṁ.
Sa môn Gotama đã đi hết tất cả nửa đường rồi và đang ngồi nghỉ trưa tại vườn của Hiền giả!”.
Sabbapaṭhamaṁyeva āgantvā samaṇo gotamo āyasmato ārāme divāvihāraṁ nisinno’ti.
Này Hiền giả Pātikaputta, Sa môn Gotama đã nói với Hội chúng về Hiền giả như sau:
Bhāsitā kho panesā, āvuso pāthikaputta, samaṇena gotamena parisati vācā—
Này các Hiền giả, lõa thể Pātikaputta không có thể đến gặp mặt Ta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
‘abhabbo kho, āvuso, acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng— ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.”
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti.
Nếu quí vị Licchavi nghĩ rằng:
Sace pāyasmantānaṁ licchavīnaṁ evamassa—
“Chúng ta hãy cột lõa thể Pātikaputta với dây thừng, và dùng bò kéo ông ấy lại đây, Pātikaputta sẽ bứt đứt dây thừng ấy.
mayaṁ acelaṁ pāthikaputtaṁ varattāhi bandhitvā goyugehi āviñcheyyāmāti, tā varattā chijjeyyuṁ pāthikaputto vā.
Lõa thể Pātikaputta không có thể, nếu không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy.
Abhabbo pana acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng— ông ấy sẽ đến gặp mặt Ta mà không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thời đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.”
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti.
Này Hiền giả Pātikaputta hãy đến. Nếu Hiền giả đến, chúng tôi sẽ làm cho Hiền giả thắng, và làm cho Sa môn Gotama thất bại.”
Abhikkamāvuso pāthikaputta, abhikkamaneneva te jayaṁ karissāma, samaṇassa gotamassa parājayan’ti.
Này Bhaggava, khi được nghe nói vậy, lõa thể Pātikaputta, tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.
Evaṁ vutte, bhaggava, acelo pāthikaputto ‘āyāmi, āvuso, āyāmi, āvuso’ti vatvā tattheva saṁsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātuṁ.
Này Bhaggava, Jāliya, đệ tử của Dārupatti nói với lõa thể Pātikaputta:
Atha kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī acelaṁ pāthikaputtaṁ etadavoca:
“Này Hiền giả Pāthikaputta sao lại vậy? Hình như mông của Hiền giả dính liền vào ghế, hay ghế dính vào mông của Hiền giả.
‘kiṁ su nāma te, āvuso pāthikaputta, pāvaḷā su nāma te pīṭhakasmiṁ allīnā, pīṭhakaṁ su nāma te pāvaḷāsu allīnaṁ?
Tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng Hiền giả trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.”
Āyāmi, āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṁsappasi, na sakkosi āsanāpi vuṭṭhātun’ti.
Này Bhaggava, được nói vậy, lõa thể Pāthikaputta, tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng Hiền giả trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.”
Evampi kho, bhaggava, vuccamāno acelo pāthikaputto ‘āyāmi, āvuso, āyāmi, āvuso’ti vatvā tattheva saṁsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātunti.
Này Bhaggava, khi Jāliya, đệ tử của Dārupatti biết được:
Yadā kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī aññāsi:
Lõa thể Pāthikaputta nay đã bị thảm bại, tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, lại trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy, liền nói với ông ấy:
‘parābhūtarūpo ayaṁ acelo pāthikaputto āyāmi, āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṁsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātun’ti, atha naṁ etadavoca—
Này Hiền giả Pāthikaputta, thuở xưa con sư tử vua các loài thú suy nghĩ:
Bhūtapubbaṁ, āvuso pāthikaputta, sīhassa migarañño etadahosi:
“Ta hãy y cứ vào một khu rừng để xây dựng sào huyệt.
‘yannūnāhaṁ aññataraṁ vanasaṇḍaṁ nissāya āsayaṁ kappeyyaṁ.
Sau khi xây dựng sào huyệt, vào buổi chiều ta sẽ ra khỏi sào huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi nhìn khắp bốn phương và ba lần rống tiếng rống con sư tử. Sau khi rống tiếng rống con sư tử, ta sẽ đi đến chỗ các thú qua lại.
Tatrāsayaṁ kappetvā sāyanhasamayaṁ āsayā nikkhameyyaṁ, āsayā nikkhamitvā vijambheyyaṁ, vijambhitvā samantā catuddisā anuvilokeyyaṁ, samantā catuddisā anuviloketvā tikkhattuṁ sīhanādaṁ nadeyyaṁ, tikkhattuṁ sīhanādaṁ naditvā gocarāya pakkameyyaṁ.
tìm giết những con thú tốt đẹp nhất, ăn các loại thịt mềm mại rồi trở về sào huyệt lại”.
So varaṁ varaṁ migasaṅghe vadhitvā mudumaṁsāni mudumaṁsāni bhakkhayitvā tameva āsayaṁ ajjhupeyyan’ti.
“Này Hiền giả, con sư tử ấy y cứ vào một khu rừng để xây dựng sào huyệt, vào buổi chiều ra khỏi sào huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi nhìn khắp bốn phương và ba lần rống tiếng rống con sư tử. Sau khi rống tiếng rống con sư tử, nó đi đến chỗ các thú qua lại. Tìm giết những con thú tốt đẹp nhất, ăn các loại thịt mềm mại rồi trở về sào huyệt lại.
Atha kho, āvuso, so sīho migarājā aññataraṁ vanasaṇḍaṁ nissāya āsayaṁ kappesi. Tatrāsayaṁ kappetvā sāyanhasamayaṁ āsayā nikkhami, āsayā nikkhamitvā vijambhi, vijambhitvā samantā catuddisā anuvilokesi, samantā catuddisā anuviloketvā tikkhattuṁ sīhanādaṁ nadi, tikkhattuṁ sīhanādaṁ naditvā gocarāya pakkāmi. So varaṁ varaṁ migasaṅghe vadhitvā mudumaṁsāni mudumaṁsāni bhakkhayitvā tameva āsayaṁ ajjhupesi.
“Này Hiền giả Pāthikaputta, có con chó rừng già kiêu ngạo và mạnh mẽ, thường sống bằng đồ ăn thừa của con sư tử, vua các loài thú.
Tasseva kho, āvuso pāthikaputta, sīhassa migarañño vighāsasaṁvaḍḍho jarasiṅgālo ditto ceva balavā ca.
Con chó rừng ấy suy nghĩ:
Atha kho, āvuso, tassa jarasiṅgālassa etadahosi:
“Ta là ai, và con sư tử, vua các loài thú, là ai?
‘ko cāhaṁ, ko sīho migarājā.
Ta hãy y cứ vào một khu rừng để xây dựng sào huyệt.
Yannūnāhampi aññataraṁ vanasaṇḍaṁ nissāya āsayaṁ kappeyyaṁ.
Sau khi xây dựng sào huyệt, vào buổi chiều ta sẽ ra khỏi sào huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi nhìn khắp bốn phương và ba lần rống tiếng rống con sư tử. Sau khi rống tiếng rống con sư tử, ta sẽ đi đến chỗ các thú qua lại.
Tatrāsayaṁ kappetvā sāyanhasamayaṁ āsayā nikkhameyyaṁ, āsayā nikkhamitvā vijambheyyaṁ, vijambhitvā samantā catuddisā anuvilokeyyaṁ, samantā catuddisā anuviloketvā tikkhattuṁ sīhanādaṁ nadeyyaṁ, tikkhattuṁ sīhanādaṁ naditvā gocarāya pakkameyyaṁ.
Tìm giết những con thú tốt đẹp nhất, ăn các loại thịt mềm mại, rồi trở về sào huyệt lại.”
So varaṁ varaṁ migasaṅghe vadhitvā mudumaṁsāni mudumaṁsāni bhakkhayitvā tameva āsayaṁ ajjhupeyyan’ti.
Này Hiền giả, con chó rừng kia ý cứ vào một khu rừng để xây dựng sào huyệt, duỗi chân cho khỏe, rồi nhìn khắp bốn phương và định ba lần rống tiếng rống con sư tử.
Atha kho so, āvuso, jarasiṅgālo aññataraṁ vanasaṇḍaṁ nissāya āsayaṁ kappesi.
Nhưng nó chỉ kêu lên tiếng loại chó rừng, tiếng sủa loại chó rừng. Ai có thể so sánh tiếng sủa con chó rừng đê tiện với tiếng rống con sư tử?
Tatrāsayaṁ kappetvā sāyanhasamayaṁ āsayā nikkhami, āsayā nikkhamitvā vijambhi, vijambhitvā samantā catuddisā anuvilokesi, samantā catuddisā anuviloketvā tikkhattuṁ sīhanādaṁ nadissāmīti siṅgālakaṁyeva anadi bheraṇḍakaṁyeva anadi, ke ca chave siṅgāle, ke pana sīhanādeti.
Cũng vậy, này Hiền giả Pātikaputta, Hiền giả sống dựa trên uy tín của bậc Thiện Thệ, ăn uống đồ tàn thực của bậc Thiện Thệ, thế mà tự nghĩ có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh Ðẳng Giác.
Evameva kho tvaṁ, āvuso pāthikaputta, sugatāpadānesu jīvamāno sugatātirittāni bhuñjamāno tathāgate arahante sammāsambuddhe āsādetabbaṁ maññasi.
Bọn Pātikaputta đê tiện là ai, lại có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh Ðẳng Giác?”
Ke ca chave pāthikaputte, kā ca tathāgatānaṁ arahantānaṁ sammāsambuddhānaṁ āsādanāti.
Này Bhaggava, Jāliya, đệ tử của Dārupati dầu có dùng ví dụ ấy cũng không thể khiến lõa thể Pātikaputta rời khỏi chỗ ngồi,
Yato kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī iminā opammena neva asakkhi acelaṁ pāthikaputtaṁ tamhā āsanā cāvetuṁ.
liền nói với ông ấy:
Atha naṁ etadavoca:
Tự nhận mình Sư Tử
‘Sīhoti attānaṁ samekkhiyāna,
Chúa tể của muôn loài
Amaññi kotthu migarājāhamasmi;
Nó sủa tiếng chó rừng
Tatheva so siṅgālakaṁ anadi,
Loại chó rừng đê tiện,
Sao rống tiếng Sư Tử?
Ke ca chave siṅgāle ke pana sīhanādeti.
“Cũng vậy, này Hiền giả Pātikaputta, Hiền giả sống dựa trên uy tín của bậc Thiện Thệ, ăn uống đồ tàn thực của bậc Thiện Thệ, thế mà nghĩ có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh Ðẳng Giác.
Evameva kho tvaṁ, āvuso pāthikaputta, sugatāpadānesu jīvamāno sugatātirittāni bhuñjamāno tathāgate arahante sammāsambuddhe āsādetabbaṁ maññasi.
Bọn Pātikaputta đê tiện là ai, lại có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A lán hán, Chánh Ðẳng Giác?”
Ke ca chave pāthikaputte, kā ca tathāgatānaṁ arahantānaṁ sammāsambuddhānaṁ āsādanā’ti.
Này Bhaggava, Jāliya, đệ tử của Dārupatti, dầu có dùng ví dụ ấy cũng không có thể khiến lõa thể Pātikaputta rời khỏi chỗ ngồi; liền nói với ông ấy:
Yato kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī imināpi opammena neva asakkhi acelaṁ pāthikaputtaṁ tamhā āsanā cāvetuṁ; Atha naṁ etadavoca:
Bước theo sau kẻ khác,
‘Aññaṁ anucaṅkamanaṁ,
To xác nhờ đồ thừa,
Attānaṁ vighāse samekkhiya;
Chính mình vẫn chưa thấy,
Yāva attānaṁ na passati,
Mạo danh chúa sơn lâm,
Kotthu tāva byagghoti maññati.
Nó sủa tiếng chó rừng
Tatheva so siṅgālakaṁ anadi,
Loại chó rừng đê tiện,
Sao rống tiếng Sư tử?
Ke ca chave siṅgāle ke pana sīhanādeti.
“Cũng vậy này Hiền giả Pātikaputta, Hiền giả sống dựa trên uy tín của bậc Thiện Thệ, ăn uống đồ tàn thực của bậc Thiện Thệ, thế mà tự nghĩ có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh Ðẳng Giác.
Evameva kho tvaṁ, āvuso pāthikaputta, sugatāpadānesu jīvamāno sugatātirittāni bhuñjamāno tathāgate arahante sammāsambuddhe āsādetabbaṁ maññasi.
Bọn Pātikaputta đê tiện là ai, lại có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh Ðẳng Giác?”
Ke ca chave pāthikaputte, kā ca tathāgatānaṁ arahantānaṁ sammāsambuddhānaṁ āsādanā’ti.
Này Bhaggava, Jāliya, đệ tử của Dārupatti, dầu có dùng ví dụ ấy, cũng không thể khiến lõa thể Pātikaputta rời khỏi chỗ ngồi; liền về Hội chúng ấy và báo tin:
Yato kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī imināpi opammena neva asakkhi acelaṁ pāthikaputtaṁ tamhā āsanā cāvetuṁ; Atha naṁ etadavoca:
‘Ếch no, chuột kho thóc,
‘Bhutvāna bheke khalamūsikāyo,
Thây quăng đầy nghĩa địa,
Kaṭasīsu khittāni ca koṇapāni;
Sống Đại Lâm hoang vu
Mahāvane suññavane vivaḍḍho,
Mạo danh chúa muôn loài,
Amaññi kotthu migarājāhamasmi;
Nó sủa tiếng chó rừng
Tatheva so siṅgālakaṁ anadi,
Loại chó rừng đê tiện,
Sao rống tiếng Sư Tử?
Ke ca chave siṅgāle ke pana sīhanādeti.
“Cũng vậy này Hiền giả Pātikaputta, Hiền giả sống dựa trên uy tín của bậc Thiện Thệ, ăn uống đồ tàn thực của bậc Thiện Thệ, thế mà tự nghĩ có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh Ðẳng Giác.
Evameva kho tvaṁ, āvuso pāthikaputta, sugatāpadānesu jīvamāno sugatātirittāni bhuñjamāno tathāgate arahante sammāsambuddhe āsādetabbaṁ maññasi.
Bọn Pātikaputta đê tiện là ai, lại có thể trịch thượng với các bậc Như Lai, A la hán, Chánh Ðẳng Giác?”
Ke ca chave pāthikaputte, kā ca tathāgatānaṁ arahantānaṁ sammāsambuddhānaṁ āsādanā’ti.
Này Bhaggava, Jāliya, đệ tử của Dārupatti, dầu có dùng ví dụ ấy, cũng không thể khiến lõa thể Pātikaputta rời khỏi chỗ ngồi; liền về Hội chúng ấy và báo tin:
Yato kho, bhaggava, jāliyo dārupattikantevāsī imināpi opammena neva asakkhi acelaṁ pāthikaputtaṁ tamhā āsanā cāvetuṁ; Atha taṁ parisaṁ āgantvā evamārocesi:
“Lõa thể Pātikaputta đã thảm bại, tuy nói: “Này Bạn, tôi sẽ đến; này Bạn, tôi sẽ đến”, nhưng ông ấy trườn bò qua lại tại chỗ, không có thể từ chỗ ngồi đứng dậy.”
‘parābhūtarūpo, bho, acelo pāthikaputto āyāmi āvuso, āyāmi, āvusoti vatvā tattheva saṁsappati, na sakkoti āsanāpi vuṭṭhātun’ti.
Này Bhaggava, khi nghe nói vậy, Ta nói với hội chúng ấy:
Evaṁ vutte, ahaṁ, bhaggava, taṁ parisaṁ etadavocaṁ:
“Này các Hiền giả, lõa thể Pātikaputta, nếu ông ấy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, thì không có thể đến gặp mặt Ta được.
‘abhabbo kho, āvuso, acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng: “Ta tuy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, có thể đến gặp mặt Sa môn Gotama được”, thì đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyya.
Nếu quý vị Licchavi nghĩ rằng: “Chúng ta hãy cột lõa thể Pātikaputta với dây thừng và dùng bò kéo ông ấy lại đây”. Pātikaputta sẽ bứt đứt dây thừng ấy.
Sacepāyasmantānaṁ licchavīnaṁ evamassa—mayaṁ acelaṁ pāthikaputtaṁ varattāhi bandhitvā nāgehi āviñcheyyāmāti. Tā varattā chijjeyyuṁ pāthikaputto vā.
Lõa thể Pātikaputta, không có khả năng từ bỏ lời nói ấy, không có khả năng từ bỏ tâm ấy, không có khả năng từ bỏ tà kiến ấy, thì không có thể đến gặp mặt Ta được.
Abhabbo pana acelo pāthikaputto taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā mama sammukhībhāvaṁ āgantuṁ.
Nếu ông ấy nghĩ rằng: “Ta tuy không từ bỏ lời nói ấy, không từ bỏ tâm ấy, không từ bỏ tà kiến ấy, có thể đến gặp mặt Sa môn Gotama được”, thì đầu của ông ấy sẽ bị bể tan.
Sacepissa evamassa—ahaṁ taṁ vācaṁ appahāya taṁ cittaṁ appahāya taṁ diṭṭhiṁ appaṭinissajjitvā samaṇassa gotamassa sammukhībhāvaṁ gaccheyyanti, muddhāpi tassa vipateyyā’ti.
Này Bhaggava, rồi Ta giảng dạy cho hội chúng ấy, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với bài thuyết pháp. Sau khi giảng dạy cho hội chúng ấy, khuyến khích, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ với bài thuyết pháp, Ta khiến cho họ giải thoát đại kiết sử, cứu vớt tám vạn bốn ngàn chúng sanh thoát khỏi đại đọa xứ, Ta nhập thiền quang giới tam muội, bay lên hư không cao đến bảy cây ta-la, phóng hào quang cao đến hơn bảy cây ta-la, khiến cho cháy sáng, rực sáng và Ta hiện ra tại Trùng Các giảng đường ở Ðại Lâm.
Atha khvāhaṁ, bhaggava, taṁ parisaṁ dhammiyā kathāya sandassesiṁ samādapesiṁ samuttejesiṁ sampahaṁsesiṁ, taṁ parisaṁ dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṁsetvā mahābandhanā mokkhaṁ karitvā caturāsītipāṇasahassāni mahāviduggā uddharitvā tejodhātuṁ samāpajjitvā sattatālaṁ vehāsaṁ abbhuggantvā aññaṁ sattatālampi acciṁ abhinimminitvā pajjalitvā dhūmāyitvā mahāvane kūṭāgārasālāyaṁ paccuṭṭhāsiṁ.
Này Bhaggava, rồi Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đến Ta, đảnh lễ Ta và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, này Bhaggava, Ta nói với Sunakkhatta, thuộc bộ lạc Licchavi đang ngồi một bên:
Atha kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto yenāhaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinnaṁ kho ahaṁ, bhaggava, sunakkhattaṁ licchaviputtaṁ etadavocaṁ:
‘Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào?
‘Taṁ kiṁ maññasi, sunakkhatta,
Có phải điều Ta nói cho Ngươi về lõa thể Pātikaputta, đã được thực hiện đúng như vậy, không có gì khác?
yatheva te ahaṁ acelaṁ pāthikaputtaṁ ārabbha byākāsiṁ, tatheva taṁ vipākaṁ aññathā vā’ti?
‘Bạch Thế Tôn, điều Thế Tôn nói cho con về lõa thể Pātikaputta đã được thực hiện đúng như vậy, không có gì khác.’
‘Yatheva me, bhante, bhagavā acelaṁ pāthikaputtaṁ ārabbha byākāsi, tatheva taṁ vipākaṁ, no aññathā’ti.
‘Này Sunakkhatta, Ngươi nghĩ thế nào?
‘Taṁ kiṁ maññasi, sunakkhatta,
Sự kiện là như vậy, thì có phải pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện hay không được thực hiện?
yadi evaṁ sante kataṁ vā hoti uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ, akataṁ vā’ti?
‘Bạch Thế Tôn, sự kiện là như vậy, thì pháp thượng nhân thần thông đã được thực hiện, không phải không thực hiện.’
‘Addhā kho, bhante, evaṁ sante kataṁ hoti uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ, no akatan’ti.
‘Này kẻ ngu kia, như vậy là pháp thượng nhân thần thông đã được Ta thực hiện, thế mà Ngươi lại nói:
‘Evampi kho maṁ tvaṁ, moghapurisa, uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karontaṁ evaṁ vadesi—
“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không thực hiện pháp thượng nhân thần thông.”
na hi pana me, bhante, bhagavā uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṁ karotīti.
Này kẻ ngu kia, hãy thấy sự lỗi lầm của Ngươi như vậy là như thế nào!”
Passa, moghapurisa, yāvañca te idaṁ aparaddhan’ti.
Này Bhaggava, như vậy Sunakkhatta thuộc bộ lạc Licchavi dầu được Ta nói vậy, từ bỏ Pháp và Luật này, như người phải rơi vào đọa xứ, địa ngục.
Evampi kho, bhaggava, sunakkhatto licchaviputto mayā vuccamāno apakkameva imasmā dhammavinayā, yathā taṁ āpāyiko nerayiko.
6. Khởi Nguyên Của Thế Giới
6. Aggaññapaññattikathā
Này Bhaggava, Ta biết về khởi nguyên thế giới.
Aggaññañcāhaṁ, bhaggava, pajānāmi.
Ta còn biết hơn thế nữa. Và khi Ta biết như vậy, Ta không có chấp trước. Vì không có chấp trước, Ta tự thân thấu hiểu được sự an tịnh ấy; chính nhờ chứng ngộ sự an tịnh này mà Như Lai không rơi vào lầm lỗi.
Tañca pajānāmi, tato ca uttaritaraṁ pajānāmi, tañca pajānaṁ na parāmasāmi, aparāmasato ca me paccattaññeva nibbuti viditā, yadabhijānaṁ tathāgato no anayaṁ āpajjati.
Này Bhaggava, có những vị Sa môn, Bà la môn tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do Tự Tại thiên (Issara) tạo ra, do Phạm thiên (Brahma) tạo ra.
Santi, bhaggava, eke samaṇabrāhmaṇā issarakuttaṁ brahmakuttaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapenti.
Ta đến những vị ấy và nói:
Tyāhaṁ upasaṅkamitvā evaṁ vadāmi:
“Có phải chư Tôn giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do Tự Tại thiên tạo ra, do Phạm thiên tạo ra?”
‘saccaṁ kira tumhe āyasmanto issarakuttaṁ brahmakuttaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapethā’ti?
Ðược Ta hỏi vậy, quý vị ấy trả lời: “Vâng!”
Te ca me evaṁ puṭṭhā, ‘āmo’ti paṭijānanti.
Ta nói với quý vị ấy:
Tyāhaṁ evaṁ vadāmi:
“Sao chư Tôn giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo thuyền thống là do Tự Tại thiên tạo ra, do Phạm thiên tạo ra”?
‘kathaṁvihitakaṁ pana tumhe āyasmanto issarakuttaṁ brahmakuttaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapethā’ti?
Ðược Ta hỏi vậy, quý vị ấy không thể trả lời được. Không thể trả lời được, quý vị ấy hỏi lại Ta.
Te mayā puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā mamaññeva paṭipucchanti.
Và được hỏi vậy, Ta trả lời như sau:
Tesāhaṁ puṭṭho byākaromi:
“Chư Hiền giả, có một thời, đến một giai đoạn nào đó, sau một thời gian rất lâu, thế giới này chuyển hoại.
‘Hoti kho so, āvuso, samayo yaṁ kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena ayaṁ loko saṁvaṭṭati.
Trong khi thế giới chuyển hoại, phần lớn các loài hữu tình chuyển sanh qua Abhassara (Quang Âm thiên).
Saṁvaṭṭamāne loke yebhuyyena sattā ābhassarasaṁvattanikā honti.
Ở tại đây, những loài hữu tình nào do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh và sống như vậy trong một thời gian khá dài.
Te tattha honti manomayā pītibhakkhā sayaṁpabhā antalikkhacarā subhaṭṭhāyino ciraṁ dīghamaddhānaṁ tiṭṭhanti.
Chư Hiền giả, có một thời, đến một giai đoạn nào đó, sau một thời gian rất lâu, thế giới này chuyển thành.
Hoti kho so, āvuso, samayo yaṁ kadāci karahaci dīghassa addhuno accayena ayaṁ loko vivaṭṭati.
Phạm cung được hiện ra nhưng trống không.
Vivaṭṭamāne loke suññaṁ brahmavimānaṁ pātubhavati.
Lúc bấy giờ, một loài hữu tình, hoặc thọ mạng đã tận, hay phước báo đã tận, mạng chung từ Quang Âm thiên sanh qua Phạm cung trống không ấy.
Atha kho aññataro satto āyukkhayā vā puññakkhayā vā ābhassarakāyā cavitvā suññaṁ brahmavimānaṁ upapajjati.
Vị ấy ở tại đấy, do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh, và sống như vậy trong một thời gian khá dài.
So tattha hoti manomayo pītibhakkho sayampabho antalikkhacaro subhaṭṭhāyī, ciraṁ dīghamaddhānaṁ tiṭṭhati.
Vị này, tại chỗ ấy, sau khi sống lâu một mình như vậy, khởi ý chán nản, không hoan hỷ và có kỳ vọng:
Tassa tattha ekakassa dīgharattaṁ nivusitattā anabhirati paritassanā uppajjati—
“Mong sao có các loài hữu tình khác cũng đến tại chỗ này!”
aho vata aññepi sattā itthattaṁ āgaccheyyunti.
Lúc bấy giờ, các loài hữu tình khác, hoặc thọ mạng đã tận, hay phước báo đã tận, bị mệnh chung và từ thân Quang Âm thiên sanh qua Phạm cung trống không để làm bạn với vị hữu tình kia.
Atha aññepi sattā āyukkhayā vā puññakkhayā vā ābhassarakāyā cavitvā suññaṁ brahmavimānaṁ upapajjanti tassa sattassa sahabyataṁ.
Các loại hữu tình này ở đây cũng có ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh và sống như vậy trong một thời gian khá dài.
Tepi tattha honti manomayā pītibhakkhā sayaṁpabhā antalikkhacarā subhaṭṭhāyino, ciraṁ dīghamaddhānaṁ tiṭṭhanti.
“Lúc bấy giờ, này các Hiền giả, vị hữu tình sanh qua đầu tiên nghĩ rằng:
Tatrāvuso, yo so satto paṭhamaṁ upapanno, tassa evaṁ hoti—
“Ta là Phạm thiên, Ðại Phạm thiên, Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh. Những loài hữu tình ấy do chính ta hóa sanh.
ahamasmi brahmā mahābrahmā abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī issaro kattā nimmātā seṭṭho sajitā vasī pitā bhūtabhabyānaṁ, mayā ime sattā nimmitā.
Tại sao vậy?
Taṁ kissa hetu?
Vì chính do ta khởi niệm:
Mamañhi pubbe etadahosi—
Mong sao các loài hữu tình khác cũng đến tại chỗ này!
aho vata aññepi sattā itthattaṁ āgaccheyyunti;
Chính do sở nguyện của ta mà những loại hữu tình ấy đến tại chỗ này”.
iti mama ca manopaṇidhi. Ime ca sattā itthattaṁ āgatāti.
Các loài hữu tình đến sau cùng nghĩ như thế này:
Yepi te sattā pacchā upapannā, tesampi evaṁ hoti—
Vị ấy là Phạm thiên, Ðại Phạm thiên, đấng Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh.
ayaṁ kho bhavaṁ brahmā mahābrahmā abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī issaro kattā nimmātā seṭṭho sajitā vasī pitā bhūtabhabyānaṁ;
Chúng ta do vị Phạm thiên này hóa sanh.
iminā mayaṁ bhotā brahmunā nimmitā.
Tại sao vậy?
Taṁ kissa hetu?
Vì chúng ta thấy vị này sanh trước ở đây rồi, còn chúng ta thì sanh sau”.
Imañhi mayaṁ addasāma idha paṭhamaṁ upapannaṁ; mayaṁ panāmha pacchā upapannāti.
“Này các Hiền giả, vị hữu tình sanh ra đầu tiên ấy, sống được lâu hơn, sắc tướng tốt đẹp hơn, và được nhiều uy quyền hơn.
Tatrāvuso, yo so satto paṭhamaṁ upapanno, so dīghāyukataro ca hoti vaṇṇavantataro ca mahesakkhataro ca.
Còn các loài hữu tình sanh sau thì sống ngắn hơn, sắc tướng ít tốt đẹp hơn, và được ít uy quyền hơn.
Ye pana te sattā pacchā upapannā, te appāyukatarā ca honti dubbaṇṇatarā ca appesakkhatarā ca.
Này các Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra. Một trong các loài hữu tình ấy, sau khi từ bỏ thân kia lại thác sanh đến cõi này.
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, āvuso, vijjati, yaṁ aññataro satto tamhā kāyā cavitvā itthattaṁ āgacchati.
Khi đến cõi này, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Itthattaṁ āgato samāno agārasmā anagāriyaṁ pabbajati.
Sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ tới đời sống ấy.
Agārasmā anagāriyaṁ pabbajito samāno ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṁ cetosamādhiṁ phusati, yathāsamāhite citte taṁ pubbenivāsaṁ anussarati; tato paraṁ nānussarati.
Vị ấy nói rằng:
So evamāha:
“Vị kia là Phạm thiên, Ðại Phạm thiên, đấng Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng Tôn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh. Chúng ta do vị Phạm thiên ấy hóa sanh. Vị ấy là thường hằng, kiên cố, thường trú, không biến chuyển, thường trú như vậy mãi mãi.
“yo kho so bhavaṁ brahmā mahābrahmā abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī issaro kattā nimmātā seṭṭho sajitā vasī pitā bhūtabhabyānaṁ, yena mayaṁ bhotā brahmunā nimmitā. So nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo sassatisamaṁ tatheva ṭhassati.
Còn chúng ta do vị Phạm thiên ấy hóa sanh đến tại chỗ này. Chúng ta là vô thường, không kiên cố, yểu thọ, chịu sự biến dịch và thác sanh đến tại chỗ này”!
Ye pana mayaṁ ahumhā tena bhotā brahmunā nimmitā, te mayaṁ aniccā addhuvā appāyukā cavanadhammā itthattaṁ āgatā”ti.
Này các Hiền giả, như vậy quý vị tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do Tự Tại thiên tạo ra, là do Phạm thiên tạo ra.”
Evaṁvihitakaṁ no tumhe āyasmanto issarakuttaṁ brahmakuttaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapethā’ti.
Các vị ấy nói như sau:
Te evamāhaṁsu:
“Này Tôn giả Gotama, chúng tôi có nghe đúng như Tôn giả Gotama nói:
‘evaṁ kho no, āvuso gotama, sutaṁ, yathevāyasmā gotamo āhā’ti.
Này Bhaggava, Ta biết về khởi nguyên thế giới.
Aggaññañcāhaṁ, bhaggava, pajānāmi.
Ta còn biết hơn thế nữa. Và khi Ta biết như vậy, Ta không có chấp trước. Vì không có chấp trước, Ta tự thân thấu hiểu được sự an tịnh ấy; chính nhờ chứng ngộ sự an tịnh này mà Như Lai không rơi vào lầm lỗi.
Tañca pajānāmi, tato ca uttaritaraṁ pajānāmi, tañca pajānaṁ na parāmasāmi, aparāmasato ca me paccattaññeva nibbuti viditā. Yadabhijānaṁ tathāgato no anayaṁ āpajjati.
Này Bhaggava, một số Sa môn, Bà la môn tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc bởi dục lạc.
Santi, bhaggava, eke samaṇabrāhmaṇā khiḍḍāpadosikaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapenti.
Ta đến những vị ấy và nói:
Tyāhaṁ upasaṅkamitvā evaṁ vadāmi:
“Có phải chư Tôn giả tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc vì dục lạc?”
‘saccaṁ kira tumhe āyasmanto khiḍḍāpadosikaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapethā’ti?
Ðược Ta hỏi vậy, quý vị ấy trả lời: Vâng.
Te ca me evaṁ puṭṭhā ‘āmo’ti paṭijānanti.
Ta nói với quý vị ấy:
Tyāhaṁ evaṁ vadāmi:
“Sao chư Hiền giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới truyền thống, là do nhiễm hoặc bởi dục lạc?”
‘kathaṁvihitakaṁ pana tumhe āyasmanto khiḍḍāpadosikaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapethā’ti?
Ðược Ta hỏi như vậy, quý vị ấy không thể trả lời được. Không thể trả lời được, quý vị ấy hỏi lại Ta
Te mayā puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā mamaññeva paṭipucchanti,
được hỏi vậy, Ta trả lời như sau:
tesāhaṁ puṭṭho byākaromi:
“Này các Hiền giả, có những hạng chư Thiên gọi là Khiddāpadosikā (bị nhiễm hoặc bởi dục lạc). Những vị này sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu dục lạc. Vì sống lâu ngày, mê say trong hý tiếu dục lạc, nên bị thất niệm. Do thất niệm, chư Thiên ấy thác sanh, từ bỏ thân thể của họ.
‘Santāvuso, khiḍḍāpadosikā nāma devā. Te ativelaṁ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannā viharanti. Tesaṁ ativelaṁ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannānaṁ viharataṁ sati sammussati, satiyā sammosā te devā tamhā kāyā cavanti.
Các hiền giả, sự tình này xảy ra. Một trong các loài hữu tình kia khi thác sanh, từ bỏ thân thể ấy, lại sanh đến chỗ này.
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, āvuso, vijjati, yaṁ aññataro satto tamhā kāyā cavitvā itthattaṁ āgacchati,
Khi đến tại chỗ này, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
itthattaṁ āgato samāno agārasmā anagāriyaṁ pabbajati,
Sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ đến đời sống quá khứ ấy chớ không nhớ xa hơn đời sống ấy. Vị ấy nói:
agārasmā anagāriyaṁ pabbajito samāno ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṁ cetosamādhiṁ phusati, yathāsamāhite citte taṁ pubbenivāsaṁ anussarati; tato paraṁ nānussarati. So evamāha:
“Những vị Thiên không bị nhiễm hoặc vì dục lạc, họ sống lâu ngày không mê say trong hý tiếu dục lạc. Vì sống lâu ngày không mê say trong hý tiếu dục lạc, nên không bị thất niệm. Nhờ không thất niệm, nên Chư thiên ấy không thác sanh, không từ bỏ thân thể của họ.
“ye kho te bhonto devā na khiḍḍāpadosikā te na ativelaṁ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannā viharanti. Tesaṁ nātivelaṁ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannānaṁ viharataṁ sati na sammussati, satiyā asammosā te devā tamhā kāyā na cavanti,
Họ sống thường hằng, kiên cố, thường trú, không bị chuyển biến, thường trú như vậy mãi mãi.
niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā sassatisamaṁ tatheva ṭhassanti.
Còn chúng ta đã bị nhiễm hoặc bởi dục lạc, sống lâu ngày mê say trong hý tiếu dục lạc. Vì chúng ta sống lâu ngày mê say trong hý tiếu dục lạc nên bị thất niệm. Do thất niệm, chúng ta từ bỏ thân thể này.
Ye pana mayaṁ ahumhā khiḍḍāpadosikā te mayaṁ ativelaṁ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannā viharimhā, tesaṁ no ativelaṁ hassakhiḍḍāratidhammasamāpannānaṁ viharataṁ sati sammussati, satiyā sammosā evaṁ mayaṁ tamhā kāyā cutā,
Chúng ta sống vô thường, không kiên cố, yểu thọ, chịu sự biến dịch và thác sanh đến chỗ này”.
aniccā addhuvā appāyukā cavanadhammā itthattaṁ āgatā”ti.
Này các Tôn giả, như vậy quý vị tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc vì dục lạc có phải không?”
Evaṁvihitakaṁ no tumhe āyasmanto khiḍḍāpadosikaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapethā’ti.
Các vị ấy nói như sau:
Te evamāhaṁsu:
Này Tôn giả Gotama, chúng tôi có nghe đúng như Tôn giả Gotama đã nói:
‘evaṁ kho no, āvuso gotama, sutaṁ, yathevāyasmā gotamo āhā’ti.
Này Bhaggava, Ta biết về khởi nguyên thế giới,…
Aggaññañcāhaṁ, bhaggava, pajānāmi …pe…
mà Như Lai không rơi vào lầm lỗi”.
yadabhijānaṁ tathāgato no anayaṁ āpajjati.
Này Bhaggava, một số Sa môn, Bà la môn tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc bởi tâm trí.
Santi, bhaggava, eke samaṇabrāhmaṇā manopadosikaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapenti.
Ta đến những vị ấy và nói:
Tyāhaṁ upasaṅkamitvā evaṁ vadāmi:
Có phải chư Tôn giả tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc bởi tâm trí?
‘saccaṁ kira tumhe āyasmanto manopadosikaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapethā’ti?
Ðược Ta hỏi vậy, quý vị ấy trả lời: “Vâng!”
Te ca me evaṁ puṭṭhā ‘āmo’ti paṭijānanti.
Ta nói với quý vị ấy:
Tyāhaṁ evaṁ vadāmi:
Sao chư Tôn giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do nhiễm hoặc bởi tâm trí?
‘kathaṁvihitakaṁ pana tumhe āyasmanto manopadosikaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapethā’ti?
Ðược Ta hỏi vậy, quý vị ấy không thể trả lời được. Không thể trả lời được, quý vị ấy hỏi lại Ta
Te mayā puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā mamaññeva paṭipucchanti.
Và được hỏi vậy, Ta trả lời như sau:
Tesāhaṁ puṭṭho byākaromi:
Chư Hiền giả, có những hạng chư Thiên gọi là Manopadosikā (nhiễm hoặc bởi tâm trí.) Họ sống lâu ngày, nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau. Vì sống lâu ngày, nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau, tâm trí của họ oán ghét lẫn nhau. Vì tâm trí oán ghét lẫn nhau, nên thân họ mệt mỏi, tâm họ mệt mỏi. Các hạng chư Thiên ấy thác sanh, từ bỏ thân này của họ.
‘Santāvuso, manopadosikā nāma devā. Te ativelaṁ aññamaññaṁ upanijjhāyanti. Te ativelaṁ aññamaññaṁ upanijjhāyantā aññamaññamhi cittāni padūsenti. Te aññamaññaṁ paduṭṭhacittā kilantakāyā kilantacittā. Te devā tamhā kāyā cavanti.
Các Hiền giả, sự tình này xảy ra. Một trong các loài hữu tình kia, khi thác sanh, từ bỏ thân thể ấy, lại sanh đến cõi này.
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, āvuso, vijjati, yaṁ aññataro satto tamhā kāyā cavitvā itthattaṁ āgacchati.
Khi sanh đến cõi này, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Itthattaṁ āgato samāno agārasmā anagāriyaṁ pabbajati.
Sau khi xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ đến đời sống quá khứ ấy chớ không nhớ xa hơn đời sống ấy. Vị ấy nói:
Agārasmā anagāriyaṁ pabbajito samāno ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṁ cetosamādhiṁ phusati, yathāsamāhite citte taṁ pubbenivāsaṁ anussarati, tato paraṁ nānussarati. So evamāha:
“Chư Thiên không bị nhiễm hoặc bởi tâm trí, họ sống lâu ngày không bị nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau, tâm trí của họ không oán ghét nhau. Vì tâm trí họ không oán ghét nhau, nên thân họ không mệt mỏi, tâm họ không mệt mỏi.
“ye kho te bhonto devā na manopadosikā te nātivelaṁ aññamaññaṁ upanijjhāyanti. Te nātivelaṁ aññamaññaṁ upanijjhāyantā aññamaññamhi cittāni nappadūsenti. Te aññamaññaṁ appaduṭṭhacittā akilantakāyā akilantacittā. Te devā tamhā kāyā na cavanti,
Hạng chư Thiên ấy không thác sanh từ bỏ thân thể của họ, sống thường hằng, kiên cố, thường trú, không bị chuyển biến, thường trú như vậy mãi mãi.
niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā sassatisamaṁ tatheva ṭhassanti.
Còn chúng ta bị nhiễm hoặc bởi tâm trí, sống lâu ngày nung nấu bởi sự đố kỵ lẫn nhau, nên tâm trí chúng ta oán ghét lẫn nhau. Vì tâm trí chúng ta oán ghét lẫn nhau, nên thân mệt mỏi và tâm mệt mỏi. Chúng thác sanh, từ bỏ thân này.
Ye pana mayaṁ ahumhā manopadosikā, te mayaṁ ativelaṁ aññamaññaṁ upanijjhāyimhā. Te mayaṁ ativelaṁ aññamaññaṁ upanijjhāyantā aññamaññamhi cittāni padūsimhā. Te mayaṁ aññamaññaṁ paduṭṭhacittā kilantakāyā kilantacittā. Evaṁ mayaṁ tamhā kāyā cutā,
sống vô thường không kiên cố, yểu thọ, chịu sự biến dịch và thác sanh đến tại chỗ này”.
aniccā addhuvā appāyukā cavanadhammā itthattaṁ āgatā”ti.
Như vậy, này các Hiền giả, quý vị tuyên bố về khởi nguyên của thế giới theo truyền thống là do bị nhiễm hoặc bởi tâm trí.”
Evaṁvihitakaṁ no tumhe āyasmanto manopadosikaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapethā’ti.
Họ trả lời như sau:
Te evamāhaṁsu:
Này Tôn giả Gotama, chúng tôi có nghe đúng như Tôn giả Gotama đã nói:
‘evaṁ kho no, āvuso gotama, sutaṁ, yathevāyasmā gotamo āhā’ti.
Này Bhaggava, Ta biết về khởi nguyên của thế giới…
Aggaññañcāhaṁ, bhaggava, pajānāmi …pe…
mà Như Lai không rơi vào lầm lỗi.
yadabhijānaṁ tathāgato no anayaṁ āpajjati.
Này Bhaggava, một số Sa môn, Bà la môn tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do vô nhân sanh.
Santi, bhaggava, eke samaṇabrāhmaṇā adhiccasamuppannaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapenti.
Ta đến những vị ấy và nói:
Tyāhaṁ upasaṅkamitvā evaṁ vadāmi:
Có phải chư Tôn giả tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do vô nhân sanh?
‘saccaṁ kira tumhe āyasmanto adhiccasamuppannaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapethā’ti?
Ðược Ta hỏi vậy, quý vị ấy trả lời: “vâng”.
Te ca me evaṁ puṭṭhā ‘āmo’ti paṭijānanti.
Ta nói với quý vị ấy:
Tyāhaṁ evaṁ vadāmi:
Sao chư Tôn giả lại tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truền thống là do vô nhân sanh?
‘kathaṁvihitakaṁ pana tumhe āyasmanto adhiccasamuppannaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapethā’ti?
Ðược Ta hỏi vậy, quý vị ấy không thể trả lời được. Không thể trả lời được, quý vị ấy hỏi lại Ta
Te mayā puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā mamaññeva paṭipucchanti.
Được hỏi vậy, Ta trả lời như sau:
Tesāhaṁ puṭṭho byākaromi:
Chư Hiền giả, có những chư Thiên gọi là Vô tưởng hữu tình.
‘Santāvuso, asaññasattā nāma devā.
Khi một tưởng niệm khởi lên, thời chư Thiên ấy thác sanh, từ bỏ thân chư Thiên của mình.
Saññuppādā ca pana te devā tamhā kāyā cavanti.
Chư Hiền giả, sự tình này có thể xảy ra. Một trong loài hữu tình ấy, khi thác sanh, từ bỏ thân chư Thiên ấy của mình, lại sanh đến cõi này.
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, āvuso, vijjati yaṁ aññataro satto tamhā kāyā cavitvā itthattaṁ āgacchati.
Khi đến tại chỗ này, vị ấy xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Itthattaṁ āgato samāno agārasmā anagāriyaṁ pabbajati.
Sau khi xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Vị ấy nhớ đến khi tưởng niệm phát sanh, chớ không nhớ xa hơn nữa.
Agārasmā anagāriyaṁ pabbajito samāno ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṁ cetosamādhiṁ phusati, yathāsamāhite citte taṁ saññuppādaṁ anussarati, tato paraṁ nānussarati’.
Vị ấy nói:
So evamāha:
“Bản ngã về thế giới do vô nhân sanh.
‘adhiccasamuppanno attā ca loko ca.
Tại sao vậy?
Taṁ kissa hetu?
Tôi trước kia không có, nay có. Từ nơi trạng thái không có, tôi trở thành loại hữu tình”.
Ahañhi pubbe nāhosiṁ, somhi etarahi ahutvā santatāya pariṇato’ti.
Như vậy, này các Tôn giả, quý vị tuyên bố về khởi nguyên thế giới theo truyền thống là do vô nhân sanh có phải như vậy không?
‘Evaṁvihitakaṁ no tumhe āyasmanto adhiccasamuppannaṁ ācariyakaṁ aggaññaṁ paññapethā’ti?
Họ trả lời:
Te evamāhaṁsu:
‘Này Hiền giả Gotama, chúng tôi có nghe đúng như Tôn giả Gotama đã nói:’
‘evaṁ kho no, āvuso gotama, sutaṁ yathevāyasmā gotamo āhā’ti.
“Này Bhaggava, Ta biết về khởi nguyên thế giới, Ta còn biết hơn thế nữa. Và khi Ta biết như vậy, Ta không có chấp trước. Vì không chấp trước, Ta tự thân thấu hiểu được sự an tịnh ấy. Chính nhờ chứng ngộ sự an tịnh này mà Như Lai không rơi vào lầm lỗi”.
Aggaññañcāhaṁ, bhaggava, pajānāmi tañca pajānāmi, tato ca uttaritaraṁ pajānāmi, tañca pajānaṁ na parāmasāmi, aparāmasato ca me paccattaññeva nibbuti viditā. Yadabhijānaṁ tathāgato no anayaṁ āpajjati.
Này Bhaggava, Ta tuyên bố như vậy, Ta quan niệm như vậy. Nhưng một số Sa môn, Bà la môn lại bài xích Ta một cách không thật, trống không, hư ngụy, giả dối:
Evaṁvādiṁ kho maṁ, bhaggava, evamakkhāyiṁ eke samaṇabrāhmaṇā asatā tucchā musā abhūtena abbhācikkhanti:
Sa môn Gotama và các vị Tỷ kheo là điên đảo.
‘viparīto samaṇo gotamo bhikkhavo ca.
Sa môn Gotama đã tuyên bố:
Samaṇo gotamo evamāha—
“Khi một ai đạt đến thanh tịnh, giải thoát, khi ấy vị ấy biết mọi vật là bất tịnh”.
yasmiṁ samaye subhaṁ vimokkhaṁ upasampajja viharati, sabbaṁ tasmiṁ samaye asubhantveva pajānātī’ti.
Nhưng này Bhaggava, Ta không có nói như vậy:
Na kho panāhaṁ, bhaggava, evaṁ vadāmi:
“Khi một ai đạt đến thanh tịnh, giải thoát, khi ấy vị ấy biết mọi vật là bất tịnh.”
‘yasmiṁ samaye subhaṁ vimokkhaṁ upasampajja viharati, sabbaṁ tasmiṁ samaye asubhantveva pajānātī’ti.
Này Bhaggava, Ta nói như sau:
Evañca khvāhaṁ, bhaggava, vadāmi:
“Khi một ai đạt đến thanh tịnh, giải thoát, khi ấy vị ấy biết mọi vật là thanh tịnh.”
‘yasmiṁ samaye subhaṁ vimokkhaṁ upasampajja viharati, subhantveva tasmiṁ samaye pajānātī’”ti.
“Bạch Thế Tôn, chính họ là điên đảo khi họ chỉ trích Thế Tôn và các Tỷ kheo là điên đảo..
“Te ca, bhante, viparītā, ye bhagavantaṁ viparītato dahanti bhikkhavo ca.
Con tin tưởng hoan hỷ đối với Thế Tôn khiến con tin rằng Thế Tôn có thể dạy cho con đến thanh tịnh giải thoát.”
Evaṁpasanno ahaṁ, bhante, bhagavati. Pahoti me bhagavā tathā dhammaṁ desetuṁ, yathā ahaṁ subhaṁ vimokkhaṁ upasampajja vihareyyan”ti.
Này Bhaggava, thật khó cho Ngươi khi Ngươi theo các kiến giải sai khác, kham nhẫn các sự việc sai khác, theo dõi những mục tiêu sai khác, đeo đuổi những mục đích sai khác, được huấn luyện theo các phương pháp sai khác để có thể đạt được thanh tịnh, giải thoát.
“Dukkaraṁ kho etaṁ, bhaggava, tayā aññadiṭṭhikena aññakhantikena aññarucikena aññatrāyogena aññatrācariyakena subhaṁ vimokkhaṁ upasampajja viharituṁ.
Này Bhaggava, hãy đặt nặng lòng tin ở nơi Ta, hãy khéo gìn giữ lòng tin tưởng ấy.”
Iṅgha tvaṁ, bhaggava, yo ca te ayaṁ mayi pasādo, tameva tvaṁ sādhukamanurakkhā”ti.
“Bạch Thế Tôn, nếu thật khó cho con, khi con theo các kiến giải sai khác, kham nhẫn các sự việc sai khác, theo dõi những mục tiêu sai khác, đeo đuổi những mục đích sai khác, được huấn luyện theo các phương pháp sai khác, để có thể đạt được thanh tịnh giải thoát.
“Sace taṁ, bhante, mayā dukkaraṁ aññadiṭṭhikena aññakhantikena aññarucikena aññatrāyogena aññatrācariyakena subhaṁ vimokkhaṁ upasampajja viharituṁ.
Thời Bạch Thế Tôn, ít nhất con cũng đặt nặng lòng tin vào Thế Tôn, và con sẽ khéo gìn giữ lòng tin tưởng ấy.”
Yo ca me ayaṁ, bhante, bhagavati pasādo, tamevāhaṁ sādhukamanurakkhissāmī”ti.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.
Du sĩ Bhaggava hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn.
Attamano bhaggavagotto paribbājako bhagavato bhāsitaṁ abhinandīti.
Pāthikasuttaṁ niṭṭhitaṁ paṭhamaṁ.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt