Sáng/Tối

Dīgha Nikāya – Trường Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trường Bộ 23

Trường Bộ 23
Dīgha Nikāya 23

Kinh Tệ Túc
Pāyāsisutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—

Một thời tôn giả Kumāra Kassapa (Cưu-ma-la Ca-diếp) đang du hành trong nước Kosala (Câu-tát-la) cùng với Ðại chúng Tỷ kheo khoảng năm trăm vị, đi đến một đô thị của Kosala tên là Setavyā (Tư-ba-ê).
ekaṁ samayaṁ āyasmā kumārakassapo kosalesu cārikaṁ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ pañcamattehi bhikkhusatehi yena setabyā nāma kosalānaṁ nagaraṁ tadavasari.

Rồi tôn giả Kumāra Kassapa trú về phía Bắc thành này, trong rừng Simsapā (Thi-xá-bà).
Tatra sudaṁ āyasmā kumārakassapo setabyāyaṁ viharati uttarena setabyaṁ siṁsapāvane.

Lúc bấy giờ, vua Pāyāsi (Tệ-túc) cư trú tại Setavyā, một chỗ dân cư đông đúc, cây cỏ, ao nước, lúa gạo phì nhiêu, một vương địa do vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) nước Kosala cấp, một ân tứ của vua, một tịnh ấp.
Tena kho pana samayena pāyāsi rājañño setabyaṁ ajjhāvasati sattussadaṁ satiṇakaṭṭhodakaṁ sadhaññaṁ rājabhoggaṁ raññā pasenadinā kosalena dinnaṁ rājadāyaṁ brahmadeyyaṁ.

1. Câu Chuyện Pāyāsi
1. Pāyāsirājaññavatthu

Lúc bấy giờ, vua Pāyāsi khởi lên ác, tà kiến như sau:
Tena kho pana samayena pāyāsissa rājaññassa evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.
“itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko”ti.

Các Bà -la-môn và Gia chủ ở Setavyā được nghe:
Assosuṁ kho setabyakā brāhmaṇagahapatikā:

“Sa môn Kumāra Kassapa, đệ tử Sa môn Gotama đang du hành trong nước Kosala cùng với Ðại chúng Tỷ kheo khoảng năm trăm vị, đã đến Setavyā, trú về phía Bắc thành này, trong rừng Simsapā.
“samaṇo khalu bho kumārakassapo samaṇassa gotamassa sāvako kosalesu cārikaṁ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ pañcamattehi bhikkhusatehi setabyaṁ anuppatto setabyāyaṁ viharati uttarena setabyaṁ siṁsapāvane.

Tiếng đồn tốt đẹp sau đây về tôn giả Kumāra Kassapa được khởi lên:
Taṁ kho pana bhavantaṁ kumārakassapaṁ evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:

“Tôn giả là bậc học rộng, tài cao, diệu trí, đa văn, lời nói thấu tâm, thiện xảo biện tài, bậc trưởng lão và bậc A la hán như vậy.
‘paṇḍito byatto medhāvī bahussuto cittakathī kalyāṇapaṭibhāno vuddho ceva arahā ca.

Lành thay! Nếu được gặp một vị A-la-hán như vậy.”
Sādhu kho pana tathārūpānaṁ arahataṁ dassanaṁ hotī’”ti.

Rồi các vị Bà -la-môn và Gia chủ ở Setavyā, từng đoàn, từng chúng, từng nhóm, đi về hướng Bắc, đến tại rừng Simsapā.
Atha kho setabyakā brāhmaṇagahapatikā setabyāya nikkhamitvā saṅghasaṅghī gaṇībhūtā uttarenamukhā gacchanti yena siṁsapāvanaṁ.

Lúc bấy giờ, vua Pāyāsi đi lên lầu thượng để nghỉ trưa.
Tena kho pana samayena pāyāsi rājañño uparipāsāde divāseyyaṁ upagato hoti.

Vua Pāyāsi thấy các Bà -la-môn và Gia chủ ở Setavyā đi ra khỏi thành Setavyā, từng đoàn, từng chúng, từng nhóm đi về hướng Bắc, đến tại rừng Simsapā.
Addasā kho pāyāsi rājañño setabyake brāhmaṇagahapatike setabyāya nikkhamitvā saṅghasaṅghī gaṇībhūte uttarenamukhe gacchante yena siṁsapāvanaṁ,

Thấy vậy vua cho gọi quan hộ thành và hỏi:
disvā khattaṁ āmantesi:

Này Khanh, vì sao các Bà-la-môn và Gia chủ ở Setavyā đi ra khỏi thành Setavyā, từng đoàn, từng chúng, từng nhóm, đi về hướng Bắc, đến tại rừng Simsapā như vậy?
“kiṁ nu kho, bho khatte, setabyakā brāhmaṇagahapatikā setabyāya nikkhamitvā saṅghasaṅghī gaṇībhūtā uttarenamukhā gacchanti yena siṁsapāvanan”ti?

Có Sa môn Kumāra Kassapa, đệ tử Sa môn Gotama đang du hành trong nước Kosala cùng với Ðại chúng Tỷ kheo khoảng năm trăm vị, đã đến Setavyā, trú về phía Bắc thành này, trong rừng Simsapā.
“Atthi kho, bho, samaṇo kumārakassapo, samaṇassa gotamassa sāvako kosalesu cārikaṁ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ pañcamattehi bhikkhusatehi setabyaṁ anuppatto setabyāyaṁ viharati uttarena setabyaṁ siṁsapāvane.

Tiếng đồn tốt đẹp sau đây về tôn giả Kumāra Kassapa được khởi lên:
Taṁ kho pana bhavantaṁ kumārakassapaṁ evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:

“Tôn giả là bậc học rộng, tài cao, diệu trí, đa văn, lời nói thấu tâm, thiện xảo, biện tài”
‘paṇḍito byatto medhāvī bahussuto cittakathī kalyāṇapaṭibhāno vuddho ceva arahā cā’ti.

và các vị ấy đi đến yết kiến tôn giả Kumāra Kassapa.
Tamete bhavantaṁ kumārakassapaṁ dassanāya upasaṅkamantī”ti.

Này Khanh, hãy đi đến các Bà-la-môn và Gia chủ ấy và nói với họ như sau:
“Tena hi, bho khatte, yena setabyakā brāhmaṇagahapatikā tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā setabyake brāhmaṇagahapatike evaṁ vadehi:

“Vua Pāyāsi nói:
‘pāyāsi, bho, rājañño evamāha—

Các Hiền giả hãy đợi. Vua Pāyāsi cũng sẽ đến yết kiến Sa môn Kumāra Kassapa”.
āgamentu kira bhavanto, pāyāsipi rājañño samaṇaṁ kumārakassapaṁ dassanāya upasaṅkamissatī’ti.

Sa môn Kumāra Kassapa có thể cảm hóa các Bà -la-môn và Gia chủ ở Setavyā ngu muội và kém khả năng theo quan điểm:
Purā samaṇo kumārakassapo setabyake brāhmaṇagahapatike bāle abyatte saññāpeti:

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.—
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’ti.

Này Khanh, sự thật không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.
Natthi hi, bho khatte, paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko”ti.

Xin vâng, thưa Tôn chủ! Vị quan hộ thành vâng lời vua Pāyāsi, đi đến các Bà -la-môn và Gia chủ ở Setavyā và nói:
“Evaṁ, bho”ti kho so khattā pāyāsissa rājaññassa paṭissutvā yena setabyakā brāhmaṇagahapatikā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā setabyake brāhmaṇagahapatike etadavoca:

Chư Hiền giả hãy chờ đợi, vua Pāyāsi sẽ đến yết kiến Sa môn Kumāra Kassapa.
“pāyāsi, bho, rājañño evamāha, āgamentu kira bhavanto, pāyāsipi rājañño samaṇaṁ kumārakassapaṁ dassanāya upasaṅkamissatī”ti.

Rồi Vua Pāyāsi được các Bà -la-môn và Gia chủ ở Setavyā hộ tống cùng đi đến rừng Simsapā chỗ trú của tôn giả Kumāra Kassapa. Sau khi đến, vua bèn nói lời thân ái, chào đón, chúc tụng rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho pāyāsi rājañño setabyakehi brāhmaṇagahapatikehi parivuto yena siṁsapāvanaṁ yenāyasmā kumārakassapo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā kumārakassapena saddhiṁ sammodi, sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdi.

Các Bà -la-môn và Gia chủ ở Setavyā, có người đảnh lễ tôn giả Kumāra Kassapa rồi ngồi xuống một bên. Có người nói lời thân ái, chào đón chúc tụng tôn giả Kumāra Kassapa rồi ngồi xuống một bên. Có người chấp tay vái chào tôn giả Kumāra Kassapa rồi ngồi xuống một bên. Có người xưng tên họ rồi ngồi xuống một bên. Có người yên lặng ngồi xuống một bên.
Setabyakāpi kho brāhmaṇagahapatikā appekacce āyasmantaṁ kumārakassapaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu; appekacce āyasmatā kumārakassapena saddhiṁ sammodiṁsu; sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Appekacce yenāyasmā kumārakassapo tenañjaliṁ paṇāmetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Appekacce nāmagottaṁ sāvetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Appekacce tuṇhībhūtā ekamantaṁ nisīdiṁsu.

2. Vô Quả Tà Kiến
2. Natthikavāda

Sau khi ngồi xuống một bên, vua Pāyāsi thưa với tôn giả Kumāra Kassapa:
Ekamantaṁ nisinno kho pāyāsi rājañño āyasmantaṁ kumārakassapaṁ etadavoca:

Tôn giả Kassapa, tôi có chủ thuyết và tri kiến như sau:
“ahañhi, bho kassapa, evaṁvādī evaṁdiṭṭhī:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

“Này Tôn chủ, tôi không thấy, không nghe quan điểm như vậy, tri kiến như vậy.
“Nāhaṁ, rājañña, evaṁvādiṁ evaṁdiṭṭhiṁ addasaṁ vā assosiṁ vā.

Sao Tôn chủ lại nói:
Kathañhi nāma evaṁ vadeyya:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’ti?

2.1. Ví Dụ Mặt Trăng Và Mặt Trời
2.1. Candimasūriyaupamā

Thưa Tôn chủ, tôi sẽ hỏi Tôn chủ một vài câu hỏi. Tôn chủ hãy tùy theo đó mà trả lời.
Tena hi, rājañña, taññevettha paṭipucchissāmi, yathā te khameyya, tathā naṁ byākareyyāsi.

Tôn chủ nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññasi, rājañña,

Mặt trời và mặt trăng này, chúng thuộc thế giới này hay thế giới khác? Chúng thuộc chư Thiên hay loài Người?
ime candimasūriyā imasmiṁ vā loke parasmiṁ vā, devā vā te manussā vā”ti?

Tôn giả Kassapa, mặt trời và mặt trăng thuộc thế giới khác, không phải thế giới này, chúng thuộc chư Thiên, không thuộc loài Người.
“Ime, bho kassapa, candimasūriyā parasmiṁ loke, na imasmiṁ; devā te na manussā”ti.

Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy, cần phải chấp nhận rằng:
“Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṁ hotu—

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.
itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko”ti.

Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṁ kassapo evamāha, atha kho evaṁ me ettha hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Này Tôn chủ, sự kiện gì để chứng minh rằng:
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo, yena te pariyāyena evaṁ hoti:

“Không có đời sau, không có các loài hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti?

Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng:
“Atthi, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṁ hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Này Tôn chủ, như thế nào?
“Yathā kathaṁ viya, rājaññā”ti?

Tôn giả Kassapa, tôi có những người bạn tri kỷ, thân tộc cùng một huyết thống. Những người này sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận và tà kiến.
“Idha me, bho kassapa, mittāmaccā ñātisālohitā pāṇātipātī adinnādāyī kāmesumicchācārī musāvādī pisuṇavācā pharusavācā samphappalāpī abhijjhālū byāpannacittā micchādiṭṭhī.

Những người này, sau một thời gian bị trọng bịnh, bị đau khổ, bị chứng tật.
Te aparena samayena ābādhikā honti dukkhitā bāḷhagilānā.

Khi tôi biết:
Yadāhaṁ jānāmi:

Những vị ấy không thể khỏi những bệnh ấy được, tôi liền đi đến họ và nói:
‘na dānime imamhā ābādhā vuṭṭhahissantī’ti tyāhaṁ upasaṅkamitvā evaṁ vadāmi:

“Một số Sa môn, Bà -la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau:
‘santi kho, bho, eke samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

“Những ai sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói láo, nói lời hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận và tà kiến, những người này sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục”.
“ye te pāṇātipātī adinnādāyī kāmesumicchācārī musāvādī pisuṇavācā pharusavācā samphappalāpī abhijjhālū byāpannacittā micchādiṭṭhī, te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjantī”ti.

Nay các Hiền giả sát sanh, lấy của không cho, tà dâm nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận và tà kiến.
Bhavanto kho pāṇātipātī adinnādāyī kāmesumicchācārī musāvādī pisuṇavācā pharusavācā samphappalāpī abhijjhālū byāpannacittā micchādiṭṭhī.

Nếu lời nói những vị Sa môn Bà-la-môn ấy chính xác, thời các Hiền giả sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục…
Sace tesaṁ bhavataṁ samaṇabrāhmaṇānaṁ saccaṁ vacanaṁ, bhavanto kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjissanti.

Nếu các Hiền giả sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục, thời quý vị hãy đến ta và cho ta biết:
Sace, bho, kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjeyyātha, yena me āgantvā āroceyyātha:

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.
“itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko”ti.

Các hiền giả là các thiện hữu thành tâm của ta, những gì Hiền giả thấy, thời sẽ là như vậy, như chính ta được thấy.”
Bhavanto kho pana me saddhāyikā paccayikā, yaṁ bhavantehi diṭṭhaṁ, yathā sāmaṁ diṭṭhaṁ evametaṁ bhavissatī’ti.

Các vị này bằng lòng làm như vậy và nói: “Lành thay!” Nhưng không có ai đến nói cho tôi biết, cũng không cho gửi sứ giả đến.
Te me ‘sādhū’ti paṭissutvā neva āgantvā ārocenti, na pana dūtaṁ pahiṇanti.

Này Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy nên tôi có tri kiến:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṁ hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

2.2. Ví Dụ Kẻ Trộm
2.2. Coraupamā

Này Tôn chủ, nay tôi sẽ hỏi Tôn chủ, nếu có thể chấp nhận, Tôn chủ hãy trả lời.
“Tena hi, rājañña, taññevettha paṭipucchissāmi. Yathā te khameyya tathā naṁ byākareyyāsi.

Tôn chủ nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññasi, rājañña,

Ở đời, có những người bắt được một người ăn trộm phạm lỗi và đem đến cho Ngài:
idha te purisā coraṁ āgucāriṁ gahetvā dasseyyuṁ:

“Thưa Ngài, đây là người ăn trộm phạm tội.
‘ayaṁ te, bhante, coro āgucārī;

Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn.”
imassa yaṁ icchasi, taṁ daṇḍaṁ paṇehī’ti.

Tôn chủ trả lời những người ấy:
Te tvaṁ evaṁ vadeyyāsi:

“Hãy trói người này thật chặt, dùng dây thật chắc trói hai tay ra đằng sau, cạo trọc đầu anh ta, cho đánh trống lớn tiếng và dẫn anh ta đi từ đường này hẻm nọ, xong đưa ra khỏi cổng thành hướng Nam mà chặt đầu tại pháp trường hướng Nam.”
‘tena hi, bho, imaṁ purisaṁ daḷhāya rajjuyā pacchābāhaṁ gāḷhabandhanaṁ bandhitvā khuramuṇḍaṁ karitvā kharassarena paṇavena rathikāya rathikaṁ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṁ parinetvā dakkhiṇena dvārena nikkhamitvā dakkhiṇato nagarassa āghātane sīsaṁ chindathā’ti.

Lành thay! Những người ấy vâng lời, trói người ăn trộm thật chặt, dùng dây thật chắc trói hai tay ra đằng sau, cạo trọc đầu anh ta, cho đánh trống lớn tiếng và dẫn anh ta đi từ đường này hẻm nọ, xong đưa anh ta ra khỏi cổng thành hướng Nam và tại pháp trường hướng Nam, bắt anh ta ngồi xuống.
Te ‘sādhū’ti paṭissutvā taṁ purisaṁ daḷhāya rajjuyā pacchābāhaṁ gāḷhabandhanaṁ bandhitvā khuramuṇḍaṁ karitvā kharassarena paṇavena rathikāya rathikaṁ siṅghāṭakena siṅghāṭakaṁ parinetvā dakkhiṇena dvārena nikkhamitvā dakkhiṇato nagarassa āghātane nisīdāpeyyuṁ.

Nay người ăn trộm ấy có thể xin người đem chém mình:
Labheyya nu kho so coro coraghātesu:

“Thưa quý vị, quý vị cho phép tôi được đi thăm thân bằng quyến thuộc ở tại làng này, hay xã này.” Hay những người ấy chặt ngay đầu người ăn trộm cầu xin như vậy?
‘āgamentu tāva bhavanto coraghātā, amukasmiṁ me gāme vā nigame vā mittāmaccā ñātisālohitā, yāvāhaṁ tesaṁ uddisitvā āgacchāmī’ti, udāhu vippalapantasseva coraghātā sīsaṁ chindeyyun”ti?

Tôn giả Kassapa, người ăn trộm ấy không được những người đem chém mình cho phép:
“Na hi so, bho kassapa, coro labheyya coraghātesu:

“Thưa quý vị, quý vị cho phép tôi được đi thăm thân bằng quyến thuộc ở tại làng này, hay xã này.”
‘āgamentu tāva bhavanto coraghātā amukasmiṁ me gāme vā nigame vā mittāmaccā ñātisālohitā, yāvāhaṁ tesaṁ uddisitvā āgacchāmī’ti.

Những người ấy chặt ngay đầu người ăn trộm cầu xin như vậy.
Atha kho naṁ vippalapantasseva coraghātā sīsaṁ chindeyyun”ti.

Này Tôn Chủ, người ăn trộm thuộc loài Người, không được phép người xử trảm mình cũng là loài Người:
“So hi nāma, rājañña, coro manusso manussabhūtesu coraghātesu na labhissati:

“Thưa quý vị cho phép tôi được đi thăm thân bằng quyến thuộc ở làng này, hay ở xã này”
‘āgamentu tāva bhavanto coraghātā, amukasmiṁ me gāme vā nigame vā mittāmaccā ñātisālohitā, yāvāhaṁ tesaṁ uddisitvā āgacchāmī’ti.

Thời làm sao những người thân bằng quyến thuộc của Ngài, đã sát sanh, lấy của không cho, tà dâm, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham dục, sân hận và tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục lại được những người coi giữ địa ngục cho phép:
Kiṁ pana te mittāmaccā ñātisālohitā pāṇātipātī adinnādāyī kāmesumicchācārī musāvādī pisuṇavācā pharusavācā samphappalāpī abhijjhālū byāpannacittā micchādiṭṭhī, te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapannā labhissanti nirayapālesu:

“Thưa quý vị coi giữ địa ngục, quý vị hãy cho phép tôi về tâu với vua Pāyāsi:
‘āgamentu tāva bhavanto nirayapālā, yāva mayaṁ pāyāsissa rājaññassa gantvā ārocema:

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”?
“itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko”’ti?

Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy, cần phải chấp nhận rằng:
Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṁ hotu:

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṁ kassapo evamāha, atha kho evaṁ me ettha hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng:
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo yena te pariyāyena evaṁ hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti?

Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng:
“Atthi, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṁ hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Này Tôn chủ, như thế nào?
“Yathā kathaṁ viya, rājaññā”ti?

Tôn giả Kassapa, tôi có những thân bằng quyến thuộc gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và có chánh kiến.
“Idha me, bho kassapa, mittāmaccā ñātisālohitā pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā pisuṇāya vācāya paṭiviratā pharusāya vācāya paṭiviratā samphappalāpā paṭiviratā anabhijjhālū abyāpannacittā sammādiṭṭhī.

Những người này, sau một thời gian bị trọng bịnh, bị đau khổ, bị chứng tật.
Te aparena samayena ābādhikā honti dukkhitā bāḷhagilānā.

Khi tôi biết:
Yadāhaṁ jānāmi:

Những vị ấy không thể khỏi những bệnh ấy được, tôi liền đi đến họ và nói:
‘na dānime imamhā ābādhā vuṭṭhahissantī’ti tyāhaṁ upasaṅkamitvā evaṁ vadāmi:

“Một số Sa môn, Bà -la-môn có những quan điểm, những tri kiến như sau:
‘santi kho, bho, eke samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

“Những ai gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và không tà kiến, những người ấy khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào thiện thú, Thiên giới”.
“ye te pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā pisuṇāya vācāya paṭiviratā pharusāya vācāya paṭiviratā samphappalāpā paṭiviratā anabhijjhālū abyāpannacittā sammādiṭṭhī te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjantī”ti.

Chư Hiền giả gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và có chánh kiến.
Bhavanto kho pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā pisuṇāya vācāya paṭiviratā pharusāya vācāya paṭiviratā samphappalāpā paṭiviratā anabhijjhālū abyāpannacittā sammādiṭṭhī.

Nếu lời nói của những Sa môn, Bà -la-môn ấy chính xác, thời các Hiền giả sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới.
Sace tesaṁ bhavataṁ samaṇabrāhmaṇānaṁ saccaṁ vacanaṁ, bhavanto kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjissanti.

Nếu các hiền giả , sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, thời quý vị hãy đến ta và cho ta biết:
Sace, bho, kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjeyyātha, yena me āgantvā āroceyyātha:

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.
“itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko”ti.

Các Hiền giả là thiện hữu thành tâm của ta, những gì Hiền giả thấy thời sẽ là như vậy, như chính ta được thấy”.
Bhavanto kho pana me saddhāyikā paccayikā, yaṁ bhavantehi diṭṭhaṁ, yathā sāmaṁ diṭṭhaṁ evametaṁ bhavissatī’ti.

Các vị này bằng lòng làm như vậy và nói: “Lành thay! Nhưng không có ai đến nói cho tôi biết, cũng không cho gửi các sứ giả đến.
Te me ‘sādhū’ti paṭissutvā neva āgantvā ārocenti, na pana dūtaṁ pahiṇanti.

Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy, nên tôi có tri kiến:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṁ hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

2.3. Ví Dụ Hầm Phân
2.3. Gūthakūpapurisaupamā

Này Tôn chủ, tôi sẽ cho Tôn chủ một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṁ te karissāmi.

Ở đời, một số người có trí nhờ ví dụ mà hiểu được nghĩa lời nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṁ ājānanti.

Này Tôn chủ, ví như có người té đầu rơi vào hầm phân.
Seyyathāpi, rājañña, puriso gūthakūpe sasīsakaṁ nimuggo assa.

Ngài nói với các người khác:
Atha tvaṁ purise āṇāpeyyāsi:

“Hãy kéo người này ra khỏi hầm phân!”
‘tena hi, bho, taṁ purisaṁ tamhā gūthakūpā uddharathā’ti.

Những người ấy vâng theo và nói: “Lành thay!” và kéo người kia ra khỏi hầm phân ấy.
Te ‘sādhū’ti paṭissutvā taṁ purisaṁ tamhā gūthakūpā uddhareyyuṁ.

Ngài nói với những người ấy:
Te tvaṁ evaṁ vadeyyāsi:

“Hãy lấy que tre gạt phân ra khỏi thân của người kia!”
‘tena hi, bho, tassa purisassa kāyā veḷupesikāhi gūthaṁ sunimmajjitaṁ nimmajjathā’ti.

Những người này vâng theo và nói: “Lành thay!” và lấy que tre gạt phân ra khỏi thân người kia.
Te ‘sādhū’ti paṭissutvā tassa purisassa kāyā veḷupesikāhi gūthaṁ sunimmajjitaṁ nimmajjeyyuṁ.

Rồi ngài bảo các người ấy:
Te tvaṁ evaṁ vadeyyāsi:

“Hãy cho thoa bóp ba lần thân người kia với phấn hoa màu vàng.”
‘tena hi, bho, tassa purisassa kāyaṁ paṇḍumattikāya tikkhattuṁ subbaṭṭitaṁ ubbaṭṭethā’ti.

Và những người ấy cho thoa bóp ba lần thân người kia với phấn thoa bóp màu vàng.
Te tassa purisassa kāyaṁ paṇḍumattikāya tikkhattuṁ subbaṭṭitaṁ ubbaṭṭeyyuṁ.

Rồi Ngài bảo các người ấy:
Te tvaṁ evaṁ vadeyyāsi:

“Hãy lấy dầu thoa và tắm cho người kia ba lần và dùng bột mịn cunna thoa cho nó!”
‘tena hi, bho, taṁ purisaṁ telena abbhañjitvā sukhumena cuṇṇena tikkhattuṁ suppadhotaṁ karothā’ti.

Và những người ấy lấy dầu thoa và tắm cho người kia ba lần và dùng bột mịn cunna thoa cho nó.
Te taṁ purisaṁ telena abbhañjitvā sukhumena cuṇṇena tikkhattuṁ suppadhotaṁ kareyyuṁ.

Rồi Ngài bảo các người ấy:
Te tvaṁ evaṁ vadeyyāsi:

“Hãy sửa soạn râu tóc cho người kia!”
‘tena hi, bho, tassa purisassa kesamassuṁ kappethā’ti.

Và những người ấy sửa soạn râu tóc cho kia.
Te tassa purisassa kesamassuṁ kappeyyuṁ.

Rồi Ngài bảo các người ấy:
Te tvaṁ evaṁ vadeyyāsi:

“Hãy lấy vòng hoa quý, dầu thơm quý và vải quý trang điểm cho người kia!”
‘tena hi, bho, tassa purisassa mahagghañca mālaṁ mahagghañca vilepanaṁ mahagghāni ca vatthāni upaharathā’ti.

Và những người ấy trang điểm vòng hoa quý, dầu thơm quý và vải quý cho người kia.
Te tassa purisassa mahagghañca mālaṁ mahagghañca vilepanaṁ mahagghāni ca vatthāni upahareyyuṁ.

Rồi Ngài bảo các người ấy:
Te tvaṁ evaṁ vadeyyāsi:

“Hãy đưa người kia đến tòa lâu đài và cho hưởng năm món dục lạc!”
‘tena hi, bho, taṁ purisaṁ pāsādaṁ āropetvā pañcakāmaguṇāni upaṭṭhāpethā’ti.

Và những người ấy đưa người kia đến tòa lâu đài và cho hưởng năm món dục lạc.
Te taṁ purisaṁ pāsādaṁ āropetvā pañcakāmaguṇāni upaṭṭhāpeyyuṁ.

Tôn chủ nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññasi, rājañña,

Người kia khéo tắm như vậy, khéo thoa dầu, khéo sửa soạn râu tóc, khéo trang điểm với vòng hoa và vải trắng, được đưa đến lâu đài và cho hưởng năm món dục lạc như vậy, thử hỏi người kia có chịu đâm đầu vào hầm phân ấy nữa không?
api nu tassa purisassa sunhātassa suvilittassa sukappitakesamassussa āmukkamālābharaṇassa odātavatthavasanassa uparipāsādavaragatassa pañcahi kāmaguṇehi samappitassa samaṅgībhūtassa paricārayamānassa punadeva tasmiṁ gūthakūpe nimujjitukāmatā assā”ti?

Thưa không, Tôn giả Kassapa!
“No hidaṁ, bho kassapa”.

Vì sao không?
“Taṁ kissa hetu”?

Tôn giả Kassapa, hầm phân là bất tịnh và được xem là bất tịnh, xú uế và được xem là xú uế, ghê tởm và được xem là ghê tởm, yếm ố và được xem là yếm ố.
“Asuci, bho kassapa, gūthakūpo asuci ceva asucisaṅkhāto ca duggandho ca duggandhasaṅkhāto ca jeguccho ca jegucchasaṅkhāto ca paṭikūlo ca paṭikūlasaṅkhāto cā”ti.

Cũng vậy, Tôn chủ, với chư thiên thì nhân loại là bất tịnh và được xem là bất tịnh, xú uế và được xem là xú uế, ghê tởm và được xem là ghê tởm, yếm ố và được xem là yếm ố.
“Evameva kho, rājañña, manussā devānaṁ asucī ceva asucisaṅkhātā ca, duggandhā ca duggandhasaṅkhātā ca, jegucchā ca jegucchasaṅkhātā ca, paṭikūlā ca paṭikūlasaṅkhātā ca.

Này Tôn chủ, mùi hôi của loài Người khiến chư Thiên ghê tởm xa đến một trăm do tuần.
Yojanasataṁ kho, rājañña, manussagandho deve ubbādhati.

Làm sao những người thân bằng quyến thuộc của Ngài, gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và không tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, những người ấy có thể về tin lại cho Tôn chủ:
Kiṁ pana te mittāmaccā ñātisālohitā pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā pisuṇāya vācāya paṭiviratā pharusāya vācāya paṭiviratā samphappalāpā paṭiviratā anabhijjhālū abyāpannacittā sammādiṭṭhī, kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapannā te āgantvā ārocessanti:

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’ti?

Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy nên:
Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṁ hotu:

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Dầu Tôn giả Kasspa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṁ kassapo evamāha, atha kho evaṁ me ettha hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo …pe…

Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
“atthi, bho kassapa, pariyāyo …pe…

Này Tôn chủ, như thế nào?
yathā kathaṁ viya, rājaññāti?

Tôn giả Kassapa, tôi có những người thân bằng quyến thuộc gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và có chánh kiến.
“Idha me, bho kassapa, mittāmaccā ñātisālohitā pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratā,

Những người này sau một thời gian bị trọng bệnh, bị đau khổ, bị chứng tật.
te aparena samayena ābādhikā honti dukkhitā bāḷhagilānā.

Khi tôi biết:
Yadāhaṁ jānāmi:

Những vị ấy không thể khỏi những bệnh ấy được, tôi liền đi đến họ và nói:
‘na dānime imamhā ābādhā vuṭṭhahissantī’ti tyāhaṁ upasaṅkamitvā evaṁ vadāmi:

“Một số Sa môn, Bà -la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau:
‘santi kho, bho, eke samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

“Những ai gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và không tà kiến. Những người ấy khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào thiện thú, tam thập tam thiên”.
“ye te pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratā, te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjanti devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sahabyatan”ti.

Chư Hiền giả gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và có chánh kiến.
Bhavanto kho pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratā.

Nếu lời nói của những vị Sa môn, Bà -la-môn này chính xác thời các Hiền giả, sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới cõi tam thập tam.
Sace tesaṁ bhavataṁ samaṇabrāhmaṇānaṁ saccaṁ vacanaṁ, bhavanto kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjissanti, devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sahabyataṁ.

Thời quý vị hãy đến ta và cho ta biết:
Sace, bho, kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjeyyātha devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sahabyataṁ, yena me āgantvā āroceyyātha:

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo”.
“itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko”ti.

Các Hiền giả là thiện hữu thành tâm của ta, những gì Hiền giả thấy sẽ là như vậy, như chính ta được thấy.”
Bhavanto kho pana me saddhāyikā paccayikā, yaṁ bhavantehi diṭṭhaṁ, yathā sāmaṁ diṭṭhaṁ evametaṁ bhavissatī’ti.

Các vị này bằng lòng làm như vậy và nói: “Lành thay!” Nhưng không ai đến nói cho tôi biết, cũng không cho gửi các sứ giả đến.
Te me ‘sādhū’ti paṭissutvā neva āgantvā ārocenti, na pana dūtaṁ pahiṇanti.

Này Tôn giả Kassapa sự kiện là như vậy, nên tôi có tri kiến:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṁ hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

2.4. Ví Dụ Chư Thiên Cõi Tam Thập Tam Thiên
2.4. Tāvatiṁsadevaupamā

Này Tôn chủ, tôi sẽ hỏi Ngài. Nếu Ngài xem có thể được Ngài hãy trả lời.
“Tena hi, rājañña, taññevettha paṭipucchissāmi; yathā te khameyya, tathā naṁ byākareyyāsi.

Này Tôn chủ, tuổi loài người một trăm năm bằng một ngày một đêm chư Thiên ở Tam thập tam thiên. Ba mươi đêm như vậy là một tháng, mười hai tháng như vậy là một năm, một ngàn năm ở Thiên giới như vậy là tuổi thọ của chư Thiên ở Tam thập tam thiên.
Yaṁ kho pana, rājañña, mānussakaṁ vassasataṁ, devānaṁ tāvatiṁsānaṁ eso eko rattindivo, tāya rattiyā tiṁsarattiyo māso, tena māsena dvādasamāsiyo saṁvaccharo, tena saṁvaccharena dibbaṁ vassasahassaṁ devānaṁ tāvatiṁsānaṁ āyuppamāṇaṁ.

Những thân bằng quyến thuộc của Tôn chủ như vậy gìn giữ không sát sanh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm, không tham dục, không sân hận và có chánh kiến. Các vị này sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh lên thiện thú, Thiên giới và làm thiện hữu với chư Thiên ở Tam thập tam thiên.
Ye te mittāmaccā ñātisālohitā pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratā, te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapannā devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sahabyataṁ.

Nếu những vị này suy nghĩ:
Sace pana tesaṁ evaṁ bhavissati:

“Chúng ta hãy thọ hưởng một món dục lạc hai hay ba ngày đêm ở Thiên giới, rồi sau sẽ đến Tôn chủ Pāyāsi và tin cho biết:
‘yāva mayaṁ dve vā tīṇi vā rattindivā dibbehi pañcahi kāmaguṇehi samappitā samaṅgībhūtā paricārema, atha mayaṁ pāyāsissa rājaññassa gantvā āroceyyāma:

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”
“itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko”ti.

Và những vị ấy có đến Ngài và tin cho biết:
Api nu te āgantvā āroceyyuṁ—

“Có đời sau, có loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo” không?
itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti?

Thưa không, Tôn giả Kassapa!
“No hidaṁ, bho kassapa.

Tôn giả Kassapa, vì chúng tôi sẽ chết đã lâu rồi.
Api hi mayaṁ, bho kassapa, ciraṁ kālaṅkatāpi bhaveyyāma.

Nhưng ai cho Tôn giả Kassapa biết:
Ko panetaṁ bhoto kassapassa āroceti:

“Có chư Thiên ở Tam thập tam thiên, hay chư Thiên ở Tam thập tam thiên tuổi thọ là như vậy”.
‘atthi devā tāvatiṁsā’ti vā ‘evaṁdīghāyukā devā tāvatiṁsā’ti vā.

Chúng tôi không tin người ấy, khi người ấy nói:
Na mayaṁ bhoto kassapassa saddahāma:

“Có chư Thiên ở Tam thập tam thiên! Hay chư Thiên ở Tam thập tam thiên, tuổi thọ là như vậy!”
‘atthi devā tāvatiṁsā’ti vā ‘evaṁdīghāyukā devā tāvatiṁsā’ti vā”ti.

2.5. Ví Dụ Người Đui Mùi Từ Khi Sanh Ra
2.5. Jaccandhaupamā

Này Tôn chủ, như có người sanh ra đã mù, không thấy được các sắc đen hay trắng, không thấy được các sắc xanh, hay sắc vàng, các sắc đỏ, hay các sắc nâu, không thấy được các sắc tế nhị hay thô cứng, không thấy được các sao hay mặt trăng.
“Seyyathāpi, rājañña, jaccandho puriso na passeyya kaṇha—sukkāni rūpāni, na passeyya nīlakāni rūpāni, na passeyya pītakāni rūpāni, na passeyya lohitakāni rūpāni, na passeyya mañjiṭṭhakāni rūpāni, na passeyya samavisamaṁ, na passeyya tārakāni rūpāni, na passeyya candimasūriye.

Người ấy nói:
So evaṁ vadeyya:

“Không có các sắc đen hay trắng, không có người thấy các sắc đen hay trắng;
‘natthi kaṇhasukkāni rūpāni, natthi kaṇhasukkānaṁ rūpānaṁ dassāvī.

không có sắc xanh, không có người thấy sắc xanh;
Natthi nīlakāni rūpāni, natthi nīlakānaṁ rūpānaṁ dassāvī.

không có sắc vàng, không có người thấy các sắc vàng;
Natthi pītakāni rūpāni, natthi pītakānaṁ rūpānaṁ dassāvī.

không có sắc đỏ, không có người thấy các sắc đỏ;
Natthi lohitakāni rūpāni, natthi lohitakānaṁ rūpānaṁ dassāvī.

không có sắc nâu, không có người thấy các sắc nâu,
Natthi mañjiṭṭhakāni rūpāni, natthi mañjiṭṭhakānaṁ rūpānaṁ dassāvī.

không các sắc tế nhị, thô cứng, không có người thấy các sắc tế nhị, thô cứng;
Natthi samavisamaṁ, natthi samavisamassa dassāvī.

không có các sao, không có người thấy các sao;
Natthi tārakāni rūpāni, natthi tārakānaṁ rūpānaṁ dassāvī.

không có mặt trăng, mặt trời, không có người thấy mặt trăng mặt trời.
Natthi candimasūriyā, natthi candimasūriyānaṁ dassāvī.

Tôi không biết vật này, tôi không thấy vật này, nên vật này không có.
Ahametaṁ na jānāmi, ahametaṁ na passāmi, tasmā taṁ natthī’ti.

Này Tôn chủ, nói như vậy có phải nói một cách hợp lý không?
Sammā nu kho so, rājañña, vadamāno vadeyyā”ti?

Thưa không, Tôn giả Kassapa.
“No hidaṁ, bho kassapa.

Có các sắc đen hay trắng, có người thấy các sắc đen hay trắng;
Atthi kaṇhasukkāni rūpāni, atthi kaṇhasukkānaṁ rūpānaṁ dassāvī.

có các sắc xanh, có người thấy các sắc xanh; có các sắc đỏ, có người thấy các sắc đỏ; có các sắc nâu, có người thấy các sắc nâu; có các vật tế nhị hay thô cứng, có người thấy các vật tế nhị hay thô cứng;
Atthi nīlakāni rūpāni, atthi nīlakānaṁ rūpānaṁ dassāvī …pe…atthi samavisamaṁ, atthi samavisamassa dassāvī.

có các vì sao, có người thấy các vì sao;
Atthi tārakāni rūpāni, atthi tārakānaṁ rūpānaṁ dassāvī.

có mặt trăng, mặt trời, có người thấy mặt trăng, mặt trời.
Atthi candimasūriyā, atthi candimasūriyānaṁ dassāvī.

“Tôi không biết vật này, tôi không thấy vật này, do vậy vật này không có.”
‘Ahametaṁ na jānāmi, ahametaṁ na passāmi, tasmā taṁ natthī’ti.

Tôn giả Kassapa, ai nói như vậy là nói không hợp lý!
Na hi so, bho kassapa, sammā vadamāno vadeyyā”ti.

Cũng vậy này Tôn chủ, Ngài nói cũng giống người sinh ra đã mù khi Ngài nói với tôi:
“Evameva kho tvaṁ, rājañña, jaccandhūpamo maññe paṭibhāsi yaṁ maṁ tvaṁ evaṁ vadesi.

“Ai bảo Tôn giả Kassapa biết rằng:
Ko panetaṁ bhoto kassapassa āroceti:

“Có chư Thiên ở Tam thập tam thiên,” hay “Chư thiên ở Tam thập Tam thiên tuổi thọ là như vậy!”
‘atthi devā tāvatiṁsā’ti vā, ‘evaṁdīghāyukā devā tāvatiṁsā’ti vā?

Chúng tôi không tin Tôn giả Kassapa, khi Tôn giả nói:
Na mayaṁ bhoto kassapassa saddahāma:

“Có chư Thiên ở Tam thập tam thiên,” hay “Chư thiên ở Tam thập tam thiên tuổi thọ là như vậy”.
‘atthi devā tāvatiṁsā’ti vā ‘evaṁdīghāyukā devā tāvatiṁsā’ti vā”ti.

Này Tôn chủ, đời sau không như Ngài nghĩ có thể thấy bằng con mắt thịt.
“Na kho, rājañña, evaṁ paro loko daṭṭhabbo, yathā tvaṁ maññasi iminā maṁsacakkhunā.

Này Tôn chủ, có những Sa môn, Bà -la-môn, sống những chỗ hẻo lánh trong rừng, ít có tiếng ồn, ít có tiếng động. Tại những chỗ ấy, các vị này sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, làm cho thiên nhãn trong sạch.
Ye kho te, rājañña, samaṇabrāhmaṇā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, te tattha appamattā ātāpino pahitattā viharantā dibbacakkhuṁ visodhenti.

Rồi với thiên nhãn thanh tịnh thắng xa loài Người, các vị này thấy đời này, đời sau, và thấy các loại hóa sanh.
Te dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena imañceva lokaṁ passanti parañca satte ca opapātike.

Này Tôn chủ, đời sau phải được thấy như vậy.
Evañca kho, rājañña, paro loko daṭṭhabbo;

Không phải như Ngài nghĩ với con mắt thịt.
na tveva yathā tvaṁ maññasi iminā maṁsacakkhunā.

Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy, nên tôi có tri kiến:
Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṁ hotu:

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṁ kassapo evamāha, atha kho evaṁ me ettha hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo …pe…

Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
atthi, bho kassapa, pariyāyo …pe…

Này Tôn chủ, như thế nào?
yathā kathaṁ viya, rājaññā”ti?

Tôn giả Kassapa, ở đây tôi thấy có những Sa môn, Bà -la-môn giữ giới, thiện tánh, ham sống, ngại chết, ham sướng, ngại khổ.
“Idhāhaṁ, bho kassapa, passāmi samaṇabrāhmaṇe sīlavante kalyāṇadhamme jīvitukāme amaritukāme sukhakāme dukkhapaṭikūle.

Tôn giả Kassapa, rồi tôi nghĩ:
Tassa mayhaṁ, bho kassapa, evaṁ hoti—

“Nếu những Sa môn, Bà -la-môn này giữ giới, có thiện tánh, được biết:
sace kho ime bhonto samaṇabrāhmaṇā sīlavanto kalyāṇadhammā evaṁ jāneyyuṁ:

“Sau khi chúng ta chết rồi, đời chúng ta sẽ được tốt đẹp hơn.”
‘ito no matānaṁ seyyo bhavissatī’ti.

Rồi những Sa môn, Bà -la-môn giữ giới, có thiện tánh ấy, hoặc uống thuốc độc, hoặc lấy kiếm đâm, hoặc tự giết mình bằng cách treo cổ, hay tự lao mình xuống hố sâu.
Idānime bhonto samaṇabrāhmaṇā sīlavanto kalyāṇadhammā visaṁ vā khādeyyuṁ, satthaṁ vā āhareyyuṁ, ubbandhitvā vā kālaṁ kareyyuṁ, papāte vā papateyyuṁ.

Vì những Sa môn, Bà -la-môn giữ giới có thiện tánh ấy không được biết:
Yasmā ca kho ime bhonto samaṇabrāhmaṇā sīlavanto kalyāṇadhammā na evaṁ jānanti:

“Sau khi chúng ta chết rồi, đời chúng ta sẽ được tốt đẹp hơn.” Do vậy các Sa môn, Bà -la-môn giữ giới, có thiện tánh ấy ham sống, ngại chết, ham sướng, ngại khổ.
‘ito no matānaṁ seyyo bhavissatī’ti, tasmā ime bhonto samaṇabrāhmaṇā sīlavanto kalyāṇadhammā jīvitukāmā amaritukāmā sukhakāmā dukkhapaṭikūlā attānaṁ na mārenti.

Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṁ hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

2.6. Ví Dụ Về Cái Thai
2.6. Gabbhinīupamā

Này Tôn chủ, tôi sẽ cho Tôn chủ một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṁ te karissāmi.

Ở đời, một số người có trí nhờ ví dụ mà hiểu được nghĩa lời nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṁ ājānanti.

Này Tôn chủ, ngày xưa có một người Bà -la-môn có hai người vợ.
Bhūtapubbaṁ, rājañña, aññatarassa brāhmaṇassa dve pajāpatiyo ahesuṁ.

Từ một người vợ, ông ta có đứa con trai, mười hai tuổi; còn người vợ kia có mang thai, sắp đến kỳ sinh nở.
Ekissā putto ahosi dasavassuddesiko vā dvādasavassuddesiko vā, ekā gabbhinī upavijaññā.

Rồi người Bà-la-môn ấy mệnh chung.
Atha kho so brāhmaṇo kālamakāsi.

Ðứa con trai ấy nói với tiểu phu nhân kia:
Atha kho so māṇavako mātusapattiṁ etadavoca:

“Này Tiểu mẫu, phàm có tài sản gì, hoặc lúa, hoặc bạc, hoặc vàng, tất cả đều là của tôi.
‘yamidaṁ, bhoti, dhanaṁ vā dhaññaṁ vā rajataṁ vā jātarūpaṁ vā, sabbaṁ taṁ mayhaṁ;

Tiểu mẫu nay không có gì hết.
natthi tuyhettha kiñci.

Tiểu mẫu hãy giao cho tôi gia tài của cha tôi.”
Pitu me, bhoti, dāyajjaṁ niyyādehī’ti.

Khi nghe nói vậy, Bà -la-môn nữ kia nói với đứa con trai ấy:
Evaṁ vutte, sā brāhmaṇī taṁ māṇavakaṁ etadavoca:

“Tiểu tử hãy chờ ta sanh con.
‘āgamehi tāva, tāta, yāva vijāyāmi.

Nếu ta sanh con trai, thì một phần gia tài thuộc về nó.
Sace kumārako bhavissati, tassapi ekadeso bhavissati;

Nếu sanh con gái, thời nó sẽ hầu hạ con.”
sace kumārikā bhavissati, sāpi te opabhoggā bhavissatī’ti.

Lần thứ hai, đứa con trai ấy nói với Tiểu phu nhân kia:
Dutiyampi kho so māṇavako mātusapattiṁ etadavoca:

“Này Tiểu mẫu, phàm có tài sản gì, hoặc lúa, hoặc bạc, hoặc vàng, tất cả đều là của tôi.
‘yamidaṁ, bhoti, dhanaṁ vā dhaññaṁ vā rajataṁ vā jātarūpaṁ vā, sabbaṁ taṁ mayhaṁ;

Tiểu mẫu nay không có gì hết.
natthi tuyhettha kiñci.

Tiểu mẫu hãy giao cho tôi gia tài của cha tôi.”
Pitu me, bhoti, dāyajjaṁ niyyādehī’ti.

Lần thứ hai, Bà -la-môn nữ kia nói với đứa trai ấy:
Dutiyampi kho sā brāhmaṇī taṁ māṇavakaṁ etadavoca:

“Tiểu tử hãy chờ ta sanh con.
‘āgamehi tāva, tāta, yāva vijāyāmi.

Nếu ta sanh con trai thì một phần gia tài thuộc về nó.
Sace kumārako bhavissati, tassapi ekadeso bhavissati;

Nếu ta sanh con gái, thời nó sẽ hầu hạ con.”
sace kumārikā bhavissati sāpi te opabhoggā bhavissatī’ti.

Lần thứ ba, đứa con trai ấy nói với Tiểu phu nhân kia:
Tatiyampi kho so māṇavako mātusapattiṁ etadavoca:

“Này Tiểu mẫu, phàm có tài sản gì, hoặc lúa, hoặc bạc, hoặc vàng, tất cả đều là của tôi.
‘yamidaṁ, bhoti, dhanaṁ vā dhaññaṁ vā rajataṁ vā jātarūpaṁ vā, sabbaṁ taṁ mayhaṁ;

Tiểu mẫu không có gì hết.
natthi tuyhettha kiñci.

Tiểu mẫu hãy giao cho tôi gia tài của cha tôi”.
Pitu me, bhoti, dāyajjaṁ niyyādehī’ti.

Rồi người Ba la môn nữ ấy lấy một con dao, vào trong nội phòng và rạch bụng ra.
Atha kho sā brāhmaṇī satthaṁ gahetvā ovarakaṁ pavisitvā udaraṁ opādesi:

“Ta muốn biết đó là con trai hay con gái.”
‘yāva vijāyāmi yadi vā kumārako yadi vā kumārikā’ti.

Như vậy người đàn bà ấy hại đời sống của mình, hại luôn cái thai và hại luôn tài sản của mình.
Sā attānañceva jīvitañca gabbhañca sāpateyyañca vināsesi.

vì đã đi tìm của thừa tự một cách ngu xuẩn và si mê, nên gặp phải nguy hiểm và tai nạn. Cũng vậy, vì ngu xuẩn và si mê, Ngài gặp phải ngu xuẩn và tai nạn khi Ngài đi tìm đời sau một cách vô trí;
Yathā taṁ bālā abyattā anayabyasanaṁ āpannā ayoniso dāyajjaṁ gavesantī, evameva kho tvaṁ, rājañña, bālo abyatto anayabyasanaṁ āpajjissasi ayoniso paralokaṁ gavesanto;

cũng giống Bà-la-môn nữ kia, vì ngu xuẩn và si mê, đã đi tìm thừa tự một cách vô trí.
seyyathāpi sā brāhmaṇī bālā abyattā anayabyasanaṁ āpannā ayoniso dāyajjaṁ gavesantī.

Này Tôn chủ, các vị Sa môn, Bà-la-môn giữ giới, có thiện tánh không bắt buộc cái gì chưa chín phải chín.
Na kho, rājañña, samaṇabrāhmaṇā sīlavanto kalyāṇadhammā apakkaṁ paripācenti;

Vì có trí, các vị ấy chờ chín muồi đến.
api ca paripākaṁ āgamenti.

Này Tôn chủ, các vị Sa môn, Bà-la-môn giữ giới có thiện tánh cần thiết đến mạng sống.
Paṇḍitānaṁ attho hi, rājañña, samaṇabrāhmaṇānaṁ sīlavantānaṁ kalyāṇadhammānaṁ jīvitena.

Này Tôn chủ, nếu các Sa môn, Bà-la-môn giữ giới, có thiện tánh sống lâu ở trên đời này bao nhiêu, các vị ấy làm được nhiều công đức bấy nhiêu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Yathā yathā kho, rājañña, samaṇabrāhmaṇā sīlavanto kalyāṇadhammā ciraṁ dīghamaddhānaṁ tiṭṭhanti tathā tathā bahuṁ puññaṁ pasavanti, bahujanahitāya ca paṭipajjanti bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṁ.

Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy nên:
Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṁ hotu:

“Có đời sau, có các loài hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṁ kassapo evamāha, atha kho evaṁ me ettha hoti:

“Không có đời sau, không có các loài hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo …pe…

Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
atthi, bho kassapa, pariyāyo …pe…

Này Tôn chủ, như thế nào?
yathā kathaṁ viya, rājaññā”ti?

Này Tôn giả Kassapa, ở đây có những người bắt được một người ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi và nói:
“Idha me, bho kassapa, purisā coraṁ āgucāriṁ gahetvā dassenti:

“Tôn chủ, đây là người ăn trộm phạm tội.
‘ayaṁ te, bhante, coro āgucārī;

Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn.
imassa yaṁ icchasi, taṁ daṇḍaṁ paṇehī’ti.

“Tôi nói với họ:
Tyāhaṁ evaṁ vadāmi:

“Các Hiền giả, hãy bỏ sống người này trong một cái chum, bịt miệng chum lại, dùng da ướt bao lại, dùng đất sét ướt quện lại trét trên miệng chum, nhắc chum ấy trên cái lò và nổi lửa đốt.
‘tena hi, bho, imaṁ purisaṁ jīvantaṁyeva kumbhiyā pakkhipitvā mukhaṁ pidahitvā allena cammena onandhitvā allāya mattikāya bahalāvalepanaṁ karitvā uddhanaṁ āropetvā aggiṁ dethā’ti.

Các người ấy đáp: “Xin vâng!”, rồi họ bỏ sống người ấy trong cái chum, bịt miệng chum lại, dùng da ướt bao lại, dùng đất sét ướt quện lại trét trên miệng chum lại, nhắc chum ấy trên cái lò và nổi lửa đốt.
Te me ‘sādhū’ti paṭissutvā taṁ purisaṁ jīvantaṁyeva kumbhiyā pakkhipitvā mukhaṁ pidahitvā allena cammena onandhitvā allāya mattikāya bahalāvalepanaṁ karitvā uddhanaṁ āropetvā aggiṁ denti.

Khi chúng tôi biết người ấy đã chết, liền nhắc chum ấy xuống, cởi các dây buộc, mở miệng chum ra vội vàng nhìn kỹ:
Yadā mayaṁ jānāma ‘kālaṅkato so puriso’ti, atha naṁ kumbhiṁ oropetvā ubbhinditvā mukhaṁ vivaritvā saṇikaṁ nillokema:

“Chúng ta mong được thấy linh hồn (người chết) đi ra”.
‘appeva nāmassa jīvaṁ nikkhamantaṁ passeyyāmā’ti.

Nhưng chúng tôi không thấy linh hồn người chết đi ra.
Nevassa mayaṁ jīvaṁ nikkhamantaṁ passāma.

Tôn giả Kassap, sự kiện là như vậy nên tôi tin rằng:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṁ hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

2.7. Ví Dụ Về Giấc Mơ
2.7. Supinakaupamā

Này Tôn chủ, tôi sẽ hỏi Ngài, nếu Ngài xem có thể được, Ngài hãy trả lời.
“Tena hi, rājañña, taññevettha paṭipucchissāmi, yathā te khameyya, tathā naṁ byākareyyāsi.

Này Tôn chủ, khi Ngài nghỉ trưa, Ngài có chấp nhận Ngài có thấy những cảnh mộng hoan lạc ở vườn, ở rừng, ở đồng bằng, ở ao hồ không?
Abhijānāsi no tvaṁ, rājañña, divā seyyaṁ upagato supinakaṁ passitā ārāmarāmaṇeyyakaṁ vanarāmaṇeyyakaṁ bhūmirāmaṇeyyakaṁ pokkharaṇīrāmaṇeyyakan”ti?

Tôn giả Kassapa, tôi xác nhận khi đi nghỉ trưa, tôi có thấy những cảnh mộng hoan lạc ở vườn, ở rừng, ở đồng bằng, ở ao hồ.
“Abhijānāmahaṁ, bho kassapa, divāseyyaṁ upagato supinakaṁ passitā ārāmarāmaṇeyyakaṁ vanarāmaṇeyyakaṁ bhūmirāmaṇeyyakaṁ pokkharaṇīrāmaṇeyyakan”ti.

Trong khi ấy, có phải Ngài được một số người hầu hạ một bên, những người gù lưng, thấp lùn, thiếu phụ và con gái?
“Rakkhanti taṁ tamhi samaye khujjāpi vāmanakāpi velāsikāpi komārikāpī”ti?

Vâng, Tôn giả Kassapa, trong khi ấy, tôi được một số người hầu hạ một bên, những người gù lưng, thấp lùn, thiếu phụ và con gái.
“Evaṁ, bho kassapa, rakkhanti maṁ tamhi samaye khujjāpi vāmanakāpi velāsikāpi komārikāpī”ti.

Và họ thấy linh hồn của Ngài đi ra hay đi vào không?
“Api nu tā tuyhaṁ jīvaṁ passanti pavisantaṁ vā nikkhamantaṁ vā”ti?

Tôn giả Kassapa, thưa không.
“No hidaṁ, bho kassapa”.

Này Tôn chủ, họ không thấy linh hồn của Tôn chủ đi ra hay đi vào trong khi ngài vẫn còn sống;
“Tā hi nāma, rājañña, tuyhaṁ jīvantassa jīvantiyo jīvaṁ na passissanti pavisantaṁ vā nikkhamantaṁ vā.

Thời làm sao Ngài có thể thấy linh hồn một người chết đi vào hay đi ra được?
Kiṁ pana tvaṁ kālaṅkatassa jīvaṁ passissasi pavisantaṁ vā nikkhamantaṁ vā.

Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy nên tôi chấp nhận:
Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṁ hotu:

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṁ kassapo evamāha, atha kho evaṁ me ettha hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo …pe…

Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
“atthi, bho kassapa, pariyāyo …pe…

Này Tôn chủ, như thế nào?
yathā kathaṁ viya, rājaññā”ti?

Tôn giả Kassapa, ở đời, có những người bắt được một người ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi:
“Idha me, bho kassapa, purisā coraṁ āgucāriṁ gahetvā dassenti:

“Thưa Tôn chủ, đây là người ăn trộm phạm tội.
‘ayaṁ te, bhante, coro āgucārī;

Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn.”
imassa yaṁ icchasi, taṁ daṇḍaṁ paṇehī’ti.

Tôi nói với họ:
Tyāhaṁ evaṁ vadāmi:

“Các khanh hãy đem cân sống anh ta đi, rồi lấy dây cung thắt cổ cho anh ta chết, xong đem cân lại.”
‘tena hi, bho, imaṁ purisaṁ jīvantaṁyeva tulāya tuletvā jiyāya anassāsakaṁ māretvā punadeva tulāya tulethā’ti.

Những người này vâng lời tôi và đáp: “Xin vâng!”, rồi họ đem cân sống người ăn trộm ấy, lấy dây cung thắt cổ anh ta cho đến chết xong cân lại.
Te me ‘sādhū’ti paṭissutvā taṁ purisaṁ jīvantaṁyeva tulāya tuletvā jiyāya anassāsakaṁ māretvā punadeva tulāya tulenti.

Khi anh ta sống thì anh ta nhẹ, mềm mại, nhu nhuyến.
Yadā so jīvati, tadā lahutaro ca hoti mudutaro ca kammaññataro ca.

Khi anh ta chết, thì anh ta nặng hơn, cứng hơn và không nhu nhuyến.
Yadā pana so kālaṅkato hoti tadā garutaro ca hoti patthinnataro ca akammaññataro ca.

Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṁ hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

2.8. Ví Dụ Hòn Sắt Nóng
2.8. Santattaayoguḷaupamā

Này Tôn chủ, tôi sẽ cho Ngài một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṁ te karissāmi.

Nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa lời nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṁ ājānanti.

Này Tôn chủ, ví như người cân một hòn sắt được đốt nóng trọn ngày, cháy đỏ, hừng lửa, đỏ rực, và một thời khác cũng đem cân hòn sắt ấy nhưng nay đã nguội lạnh.
Seyyathāpi, rājañña, puriso divasaṁ santattaṁ ayoguḷaṁ ādittaṁ sampajjalitaṁ sajotibhūtaṁ tulāya tuleyya.

Khi nào thì hòn sắt ấy nhẹ hơn, mềm mại hơn, hay nhu nhuyến hơn?
Tamenaṁ aparena samayena sītaṁ nibbutaṁ tulāya tuleyya.

Khi hòn sắt ấy đang cháy đỏ, hừng lửa, đỏ rực hay khi đã nguội lạnh?
Kadā nu kho so ayoguḷo lahutaro vā hoti mudutaro vā kammaññataro vā, yadā vā āditto sampajjalito sajotibhūto, yadā vā sīto nibbuto”ti?

Tôn giả Kassapa, khi hòn sắt ấy cháy đỏ, hừng lửa, đỏ rực, khi ấy hòn sắt nhẹ hơn, mềm mại hơn và nhu nhuyến hơn.
“Yadā so, bho kassapa, ayoguḷo tejosahagato ca hoti vāyosahagato ca āditto sampajjalito sajotibhūto, tadā lahutaro ca hoti mudutaro ca kammaññataro ca.

Khi hòn sắt ấy không cháy đỏ, không hừng lửa, nguội lạnh rồi, khi đó hòn sắt nặng hơn, cứng hơn và không nhu nhuyến.
Yadā pana so ayoguḷo neva tejosahagato hoti na vāyosahagato sīto nibbuto, tadā garutaro ca hoti patthinnataro ca akammaññataro cā”ti.

Này Tôn chủ, khi thân này có tuổi thọ, có sức nặng, có thức thì nó nhẹ hơn, mềm mại hơn và nhu nhuyến hơn.
“Evameva kho, rājañña, yadāyaṁ kāyo āyusahagato ca hoti usmāsahagato ca viññāṇasahagato ca, tadā lahutaro ca hoti mudutaro ca kammaññataro ca.

Khi các thân này không có tuổi thọ, không có sức nóng và không có thức thời nó nặng hơn, cứng hơn và không nhu nhuyến.
Yadā panāyaṁ kāyo neva āyusahagato hoti na usmāsahagato na viññāṇasahagato tadā garutaro ca hoti patthinnataro ca akammaññataro ca.

Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận:
Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṁ hotu:

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṁ kassapo evamāha, atha kho evaṁ me ettha hoti:

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo …pe…

Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
atthi, bho kassapa, pariyāyo …pe…

Này Tôn chủ, như thế nào?
yathā kathaṁ viya, rājaññā”ti?

Tôn giả Kassapa, có những người bắt được một người ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi:
“Idha me, bho kassapa, purisā coraṁ āgucāriṁ gahetvā dassenti:

“Thưa Tôn chủ, đây là người ăn trộm phạm tội.
‘ayaṁ te, bhante, coro āgucārī;

Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn.”
imassa yaṁ icchasi, taṁ daṇḍaṁ paṇehī’ti.

Tôi nói với họ như sau:
Tyāhaṁ evaṁ vadāmi:

“Các khanh, hãy giết người này bằng cách lột da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và xương tủy của anh ta”.
‘tena hi, bho, imaṁ purisaṁ anupahacca chaviñca cammañca maṁsañca nhāruñca aṭṭhiñca aṭṭhimiñjañca jīvitā voropetha, appeva nāmassa jīvaṁ nikkhamantaṁ passeyyāmā’ti.

Những người này vâng lời tôi và đáp: “Xin vâng, Tôn chủ!” rồi họ bèn giết người ấy bằng cách lột da ngoài, da trong, thịt, gân, xương, và xương tủy.
Te me ‘sādhū’ti paṭissutvā taṁ purisaṁ anupahacca chaviñca …pe… jīvitā voropenti.

Khi người áy chết một phần nửa, tôi bảo họ:
Yadā so āmato hoti, tyāhaṁ evaṁ vadāmi:

“Hãy lật ngược người này nằm ngửa, và xem linh hồn của anh ta có đi ra không?”
‘tena hi, bho, imaṁ purisaṁ uttānaṁ nipātetha, appeva nāmassa jīvaṁ nikkhamantaṁ passeyyāmā’ti.

Họ lật ngược người này nằm ngửa,
Te taṁ purisaṁ uttānaṁ nipātenti.

và chúng tôi không thấy linh hồn người ấy đi ra.
Nevassa mayaṁ jīvaṁ nikkhamantaṁ passāma.

Tôi lại bảo họ:
Tyāhaṁ evaṁ vadāmi:

“Hãy lật người này nằm cong lại…
‘tena hi, bho, imaṁ purisaṁ avakujjaṁ nipātetha …

nằm phía một bên…
passena nipātetha …

nằm phía bên kia…
dutiyena passena nipātetha …

đặt người đó đứng thẳng…
uddhaṁ ṭhapetha …

đặt người ấy đứng lộn đầu xuống…
omuddhakaṁ ṭhapetha …

đánh người ấy với tay…
pāṇinā ākoṭetha …

đánh người ấy với cục đất…
leḍḍunā ākoṭetha …

đánh người ấy với gậy…
daṇḍena ākoṭetha …

đánh người ấy với gươm…
satthena ākoṭetha …

đánh anh ta phía bên này… đánh anh ta phía bên kia… đánh anh ta cùng khắp tất cả và xem linh hồn của anh ta có đi ra không?
odhunātha sandhunātha niddhunātha, appeva nāmassa jīvaṁ nikkhamantaṁ passeyyāmā’ti.

Họ đánh anh ta phía bên này, đánh anh ta phía bên kia, đánh anh ta cùng khắp tất cả
Te taṁ purisaṁ odhunanti sandhunanti niddhunanti.

và chúng tôi không thấy linh hồn người ấy đi ra.
Nevassa mayaṁ jīvaṁ nikkhamantaṁ passāma.

Anh ta có mắt và sắc pháp các mặt, nhưng căn không cảm thọ được.
Tassa tadeva cakkhu hoti te rūpā, tañcāyatanaṁ nappaṭisaṁvedeti.

Anh ta có tai và các tiếng có mặt, nhưng căn không cảm thọ được.
Tadeva sotaṁ hoti te saddā, tañcāyatanaṁ nappaṭisaṁvedeti.

Anh ta có mũi và các hương mặt, nhưng căn không cảm thọ được.
Tadeva ghānaṁ hoti te gandhā, tañcāyatanaṁ nappaṭisaṁvedeti.

Anh ta có lưỡi và các vị có mặt, nhưng căn không cảm thọ được.
Sāva jivhā hoti te rasā, tañcāyatanaṁ nappaṭisaṁvedeti.

Anh ta có thân và các xúc có mặt, nhưng căn không cảm thọ được.
Sveva kāyo hoti te phoṭṭhabbā, tañcāyatanaṁ nappaṭisaṁvedeti.

Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṁ hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

2.9. Ví Dụ Tù Và Vỏ Ốc
2.9. Saṅkhadhamaupamā

Này Tôn chủ, tôi sẽ cho Ngài một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṁ te karissāmi.

Nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa của lời nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṁ ājānanti.

Này Tôn chủ, thuở xưa có một người thổi tù và, cầm tù và bằng vỏ ốc và đi đến biên giới.
Bhūtapubbaṁ, rājañña, aññataro saṅkhadhamo saṅkhaṁ ādāya paccantimaṁ janapadaṁ agamāsi.

Người ấy đi đến một làng kia, sau khi đến xong, đứng giữa làng, thổi ống tù và ba lần, đặt ống tù và xuống đất và ngồi xuống một bên.
So yena aññataro gāmo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā majjhe gāmassa ṭhito tikkhattuṁ saṅkhaṁ upalāpetvā saṅkhaṁ bhūmiyaṁ nikkhipitvā ekamantaṁ nisīdi.

Này Tôn chủ, những người dân ở biên giới ấy suy nghĩ:
Atha kho, rājañña, tesaṁ paccantajanapadānaṁ manussānaṁ etadahosi:

“Tiếng ấy là tiếng của ai mà lại khả ái như vậy, đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy, hấp dẫn như vậy, rung cảm như vậy.”
‘ambho kassa nu kho eso saddo evaṁrajanīyo evaṅkamanīyo evaṁmadanīyo evambandhanīyo evaṁmucchanīyo’ti.

Họ tụ họp lại và hỏi người thổi tù và:
Sannipatitvā taṁ saṅkhadhamaṁ etadavocuṁ:

“Này bạn, tiếng ấy là tiếng của ai mà lại khả ái như vậy, đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy, hấp dẫn như vậy, rung cảm như vậy?”
‘ambho, kassa nu kho eso saddo evaṁrajanīyo evaṅkamanīyo evaṁmadanīyo evambandhanīyo evaṁmucchanīyo’ti.

“Này các bạn, đây là cái tù và, và tiếng của tù và ấy khả ái như vậy, đẹp đẽ như vậy, mê ly như vậy, hấp dẫn như vậy, rung cảm như vậy.”
‘Eso kho, bho, saṅkho nāma yasseso saddo evaṁrajanīyo evaṅkamanīyo evaṁmadanīyo evambandhanīyo evaṁmucchanīyo’ti.

Họ bèn đặt chiếc tù và nằm ngửa và nói:
Te taṁ saṅkhaṁ uttānaṁ nipātesuṁ:

“Hãy nói đi, bạn tù và! Hãy nói đi, bạn tù và!”
‘vadehi, bho saṅkha, vadehi, bho saṅkhā’ti.

Nhưng chiếc tù và ấy không nói tiếng gì hết.
Neva so saṅkho saddamakāsi.

Họ đặt chiếc tù và ấy nằm cong lại, nằm phía bên này, nằm phía bên kia… đặt đứng thẳng… đặt ngược đầu xuống… lấy tay đánh… lấy cục đấy đánh… lấy gậy đánh… lấy gươm đánh… đánh phía bên này… đánh phía bên kia… đánh cùng khắp tất cả và nói:
Te taṁ saṅkhaṁ avakujjaṁ nipātesuṁ, passena nipātesuṁ, dutiyena passena nipātesuṁ, uddhaṁ ṭhapesuṁ, omuddhakaṁ ṭhapesuṁ, pāṇinā ākoṭesuṁ, leḍḍunā ākoṭesuṁ, daṇḍena ākoṭesuṁ, satthena ākoṭesuṁ, odhuniṁsu sandhuniṁsu niddhuniṁsu:

“Này bạn tù và, hãy nói đi! Này bạn tù và, hãy nói đi!”
‘vadehi, bho saṅkha, vadehi, bho saṅkhā’ti.

Nhưng chiếc tù và ấy không nói gì cả.
Neva so saṅkho saddamakāsi.

Này Tôn chủ, rồi người thổi tù và suy nghĩ như sau:
Atha kho, rājañña, tassa saṅkhadhamassa etadahosi:

“Thật là ngu si, những người dân ở biên giới này! Sao lại đi tìm tiếng tù và một cách vô ý thức như vậy!”
‘yāva bālā ime paccantajanapadā manussā, kathañhi nāma ayoniso saṅkhasaddaṁ gavesissantī’ti.

Trong khi họ đang tìm kiếm như vậy, người thổi tù và cầm chiếc tù và lên, thổi lên ba lần rồi cầm chiếc tù và ra đi.
Tesaṁ pekkhamānānaṁ saṅkhaṁ gahetvā tikkhattuṁ saṅkhaṁ upalāpetvā saṅkhaṁ ādāya pakkāmi.

Này Tôn chủ, những người ở biên giới suy nghĩ như sau:
Atha kho, rājañña, tesaṁ paccantajanapadānaṁ manussānaṁ etadahosi:

“Này các bạn, chiếc tù và này, khi nào có người phụ trợ, có sự nỗ lực phụ trợ và có gió thổi phụ trợ, thì chiếc tù và phát ra tiếng. Khi nào chiếc tù và này không có người phụ trợ, không có sự nỗ lực phụ trợ và không có gió thổi phụ trợ thì chiếc tù và này không phát ra tiếng.”
‘yadā kira, bho, ayaṁ saṅkho nāma purisasahagato ca hoti vāyāmasahagato ca vāyusahagato ca, tadāyaṁ saṅkho saddaṁ karoti, yadā panāyaṁ saṅkho neva purisasahagato hoti na vāyāmasahagato na vāyusahagato, nāyaṁ saṅkho saddaṁ karotī’ti.

Cũng vậy, này Tôn chủ! Khi nào thân này có tuổi thọ phụ trợ, có hơi nóng phụ trợ và có thức phụ trợ, thời thân ấy đi tới, đi lui, đứng lên, ngồi xuống, nằm xuống, thời mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý biết pháp.
Evameva kho, rājañña, yadāyaṁ kāyo āyusahagato ca hoti usmāsahagato ca viññāṇasahagato ca, tadā abhikkamatipi paṭikkamatipi tiṭṭhatipi nisīdatipi seyyampi kappeti, cakkhunāpi rūpaṁ passati, sotenapi saddaṁ suṇāti, ghānenapi gandhaṁ ghāyati, jivhāyapi rasaṁ sāyati, kāyenapi phoṭṭhabbaṁ phusati, manasāpi dhammaṁ vijānāti.

Nhưng khi thân này không có tuổi thọ phụ trợ, không có hơi nóng phụ trợ, và không có thức phụ trợ, thời thân ấy không đi tới, không đi lui, không đứng lại, không ngồi xuống, không nằm xuống, thời mắt không thấy sắc, tai không nghe tiếng, mũi không ngửi hương, lưỡi không nếm vị, thân không cảm xúc, ý không biết pháp.
Yadā panāyaṁ kāyo neva āyusahagato hoti, na usmāsahagato, na viññāṇasahagato, tadā neva abhikkamati na paṭikkamati na tiṭṭhati na nisīdati na seyyaṁ kappeti, cakkhunāpi rūpaṁ na passati, sotenapi saddaṁ na suṇāti, ghānenapi gandhaṁ na ghāyati, jivhāyapi rasaṁ na sāyati, kāyenapi phoṭṭhabbaṁ na phusati, manasāpi dhammaṁ na vijānāti.

Này Tôn chủ, sự kiện là như vậy, nên tôi chấp nhận:
Imināpi kho te, rājañña, pariyāyena evaṁ hotu:

“Có đời sau, có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác có quả báo.”
‘itipi atthi paro loko, atthi sattā opapātikā, atthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, ở đây tôi vẫn chấp nhận:
“Kiñcāpi bhavaṁ kassapo evamāha, atha kho evaṁ me ettha hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

Này Tôn chủ, có sự kiện gì để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
“Atthi pana, rājañña, pariyāyo …pe…

Tôn giả Kassapa, vâng, có sự kiện để chứng minh rằng: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
atthi, bho kassapa, pariyāyo …pe…

Này Tôn chủ, như thế nào?
yathā kathaṁ viya, rājaññā”ti?

Tôn giả Kassapa, nay có những người bắt được một tên ăn trộm phạm tội và đem đến cho tôi:
“Idha me, bho kassapa, purisā coraṁ āgucāriṁ gahetvā dassenti:

“Thưa Tôn chủ, đây là người ăn trộm phạm tội.
‘ayaṁ te, bhante, coro āgucārī,

Hãy hình phạt anh ta như Ngài muốn.”
imassa yaṁ icchasi, taṁ daṇḍaṁ paṇehī’ti.

Tôi nói với họ như sau:
Tyāhaṁ evaṁ vadāmi:

“Các khanh hãy lột da anh ta, để chúng ta có thể thấy linh hồn của anh ta.”
‘tena hi, bho, imassa purisassa chaviṁ chindatha, appeva nāmassa jīvaṁ passeyyāmā’ti.

Chúng lột da của người ấy
Te tassa purisassa chaviṁ chindanti.

nhưng chúng tôi không thấy linh hồn của anh ta.
Nevassa mayaṁ jīvaṁ passāma.

Rồi tôi bảo họ:
Tyāhaṁ evaṁ vadāmi:

“Các khanh hãy lột da trong của người ấy… cắt thịt… cắt gân… cắt xương… đẽo cho đến xương tủy để chúng ta có thể thấy linh hồn của anh ta.”
‘tena hi, bho, imassa purisassa cammaṁ chindatha, maṁsaṁ chindatha, nhāruṁ chindatha, aṭṭhiṁ chindatha, aṭṭhimiñjaṁ chindatha, appeva nāmassa jīvaṁ passeyyāmā’ti.

Họ đẽo cho đến xương tủy của người ấy, nhưng chúng tôi không thấy linh hồn của anh ta.
Te tassa purisassa aṭṭhimiñjaṁ chindanti, nevassa mayaṁ jīvaṁ passeyyāma.

Này Tôn giả Kassapa, sự kiện là như vậy nên tôi chấp nhận:
Ayampi kho, bho kassapa, pariyāyo, yena me pariyāyena evaṁ hoti:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti.

2.10. Ví Dụ Người Bện Tóc Thờ Lửa
2.10. Aggikajaṭilaupamā

Này Tôn chủ, tôi sẽ cho một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṁ te karissāmi.

Ở đời một số người có trí thức, nhờ ví dụ hiểu được ý nghĩa câu nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṁ ājānanti.

Này Tôn chủ, thuở xưa có người bện tóc thờ lửa, sống trong một ngôi nhà lá, tại một khu rừng.
Bhūtapubbaṁ, rājañña, aññataro aggiko jaṭilo araññāyatane paṇṇakuṭiyā sammati.

Này Tôn chủ, một số dân chúng di cư đến đấy.
Atha kho, rājañña, aññataro janapade sattho vuṭṭhāsi.

Vị lãnh đạo của chúng, sau một đêm ở xung quanh cái cốc của người bện tóc thờ lửa bèn bỏ đi.
Atha kho so sattho tassa aggikassa jaṭilassa assamassa sāmantā ekarattiṁ vasitvā pakkāmi.

Này Tôn chủ, người bện tóc thờ lửa suy nghĩ:
Atha kho, rājañña, tassa aggikassa jaṭilassa etadahosi:

“Nếu ta đến chỗ ở của người lãnh đạo, ta có thể kiếm được một vài đồ vật hữu dụng ở đó.”
‘yannūnāhaṁ yena so satthavāso tenupasaṅkameyyaṁ, appeva nāmettha kiñci upakaraṇaṁ adhigaccheyyan’ti.

Rồi người bện tóc thở lửa, dậy sớm đến chỗ ở của người lãnh đạo, và thấy một đứa hài nhi bị quăng nằm ngửa ở đó.
Atha kho so aggiko jaṭilo kālasseva vuṭṭhāya yena so satthavāso tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā addasa tasmiṁ satthavāse daharaṁ kumāraṁ mandaṁ uttānaseyyakaṁ chaḍḍitaṁ.

Thấy vậy vị ấy nghĩ:
Disvānassa etadahosi:

“Thật không phải chút nào nếu ta để một hài nhi phải chết trong khi ta đang tìm kiếm.
‘na kho me taṁ patirūpaṁ yaṁ me pekkhamānassa manussabhūto kālaṅkareyya;

Ta hãy đem hài nhi này về cốc của ta, nuôi nó, săn sóc nó, cấp dưỡng nó”.
yannūnāhaṁ imaṁ dārakaṁ assamaṁ netvā āpādeyyaṁ poseyyaṁ vaḍḍheyyan’ti.

Rồi người bện tóc thờ lửa ấy đem đứa hài nhi ấy về cốc nuôi nó, săn sóc nó, cấp dưỡng nó.
Atha kho so aggiko jaṭilo taṁ dārakaṁ assamaṁ netvā āpādesi posesi vaḍḍhesi.

Khi đứa trẻ đến tuổi mười hay mười hai, người bện tóc thờ lửa có công việc phải đi xuống đồng bằng.
Yadā so dārako dasavassuddesiko vā hoti dvādasavassuddesiko vā, atha kho tassa aggikassa jaṭilassa janapade kañcideva karaṇīyaṁ uppajji.

Người bện tóc thờ lửa bảo đứa trẻ ấy:
Atha kho so aggiko jaṭilo taṁ dārakaṁ etadavoca:

Này con, ta muốn đi xuống đồng bằng,
‘icchāmahaṁ, tāta, janapadaṁ gantuṁ;

hãy chăm sóc ngọn lửa,
aggiṁ, tāta, paricareyyāsi.

đừng để nó tắt.
Mā ca te aggi nibbāyi.

Nếu lửa có tắt, đây là cái búa nhỏ, đây là củi, đây là đồ quay để nhóm lửa, hãy nhen lửa lại và chăm sóc ngọn lửa”.
Sace ca te aggi nibbāyeyya, ayaṁ vāsī imāni kaṭṭhāni idaṁ araṇisahitaṁ, aggiṁ nibbattetvā aggiṁ paricareyyāsī’ti.

Người bện tóc thờ lửa ấy, sau khi căn dặn đứa trẻ, bèn đi xuống đồng bằng.
Atha kho so aggiko jaṭilo taṁ dārakaṁ evaṁ anusāsitvā janapadaṁ agamāsi.

Ðứa trẻ mãi ham vui đùa khiến lửa tắt.
Tassa khiḍḍāpasutassa aggi nibbāyi.

Ðứa trẻ suy nghĩ:
Atha kho tassa dārakassa etadahosi:

“Cha ta có bảo ta: “Hãy chăm sóc ngọn lửa. Đừng để nó tắt.
‘pitā kho maṁ evaṁ avaca: “aggiṁ, tāta, paricareyyāsi. Mā ca te aggi nibbāyi.

Nếu con để tắt lửa, đây là cái búa nhỏ, đây là củi, đây là đồ quay để nhóm lửa lại.”
Sace ca te aggi nibbāyeyya, ayaṁ vāsī imāni kaṭṭhāni idaṁ araṇisahitaṁ, aggiṁ nibbattetvā aggiṁ paricareyyāsī”ti.

Vậy ta hãy nhen lửa lên và chăm sóc ngọn lửa.”
Yannūnāhaṁ aggiṁ nibbattetvā aggiṁ paricareyyan’ti.

Rồi đứa trẻ ấy lấy búa chẻ đồ quây lửa với ý nghĩ:
Atha kho so dārako araṇisahitaṁ vāsiyā tacchi:

“Ta sẽ tìm thấy lửa.”
‘appeva nāma aggiṁ adhigaccheyyan’ti.

Nhưng lửa không có.
Neva so aggiṁ adhigacchi.

Nó đem chẻ đồ quây lửa làm hai, làm ba, làm bốn, làm năm, làm mười, làm trăm, chẻ nhỏ vụn ra, lấy chày mà giã, và sau khi đã giã nhỏ, lại đem ra sàng trước gió lớn với ý nghĩ:
Araṇisahitaṁ dvidhā phālesi, tidhā phālesi, catudhā phālesi, pañcadhā phālesi, dasadhā phālesi, satadhā phālesi, sakalikaṁ sakalikaṁ akāsi, sakalikaṁ sakalikaṁ karitvā udukkhale koṭṭesi, udukkhale koṭṭetvā mahāvāte opuni:

“Ta sẽ tìm thấy lửa.”
‘appeva nāma aggiṁ adhigaccheyyan’ti.

Nhưng lửa không có.
Neva so aggiṁ adhigacchi.

Người bện tóc sau khi làm xong công việc ở đồng bằng, liền về cốc của mình và hỏi đứa bé:
Atha kho so aggiko jaṭilo janapade taṁ karaṇīyaṁ tīretvā yena sako assamo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṁ dārakaṁ etadavoca:

“Này con, sao con để tắt lửa thế này?”
‘kacci te, tāta, aggi na nibbuto’ti?

“Thưa cha, con mãi ham chơi nên để lửa tắt.
‘Idha me, tāta, khiḍḍāpasutassa aggi nibbāyi.

Rồi con suy nghĩ: “Cha đã bảo ta: “Hãy chăm sóc ngọn lửa. Đừng để tắt nó.
Tassa me etadahosi: “pitā kho maṁ evaṁ avaca: aggiṁ, tāta, paricareyyāsi. Mā ca te, tāta, aggi nibbāyi.

Nếu con để tắt lửa, đây là cái búa nhỏ, đây là củi, đây là đồ quây để nhen lửa lại”.
Sace ca te aggi nibbāyeyya, ayaṁ vāsī imāni kaṭṭhāni idaṁ araṇisahitaṁ, aggiṁ nibbattetvā aggiṁ paricareyyāsīti.

Vậy ta hãy nhen lửa lên và chăm sóc ngọn lửa”.
Yannūnāhaṁ aggiṁ nibbattetvā aggiṁ paricareyyan”ti.

Thưa cha, rồi con lấy búa nhỏ chẻ đồ quây lửa với ý nghĩ:
Atha khvāhaṁ, tāta, araṇisahitaṁ vāsiyā tacchiṁ:

“Ta sẽ tìm ra lửa.”
“appeva nāma aggiṁ adhigaccheyyan”ti.

Nhưng con tìm không được lửa.
Nevāhaṁ aggiṁ adhigacchiṁ.

Con đem chẻ đồ quây lửa, làm hai, làm ba, lám bốn, làm năm, làm mười, làm trăm, chẻ nhỏ vụn ra, lấy chày mà giã, và sau khi giã nhỏ, lại đem ra sàng trước gió lớn với ý nghĩ:
Araṇisahitaṁ dvidhā phālesiṁ, tidhā phālesiṁ, catudhā phālesiṁ, pañcadhā phālesiṁ, dasadhā phālesiṁ, satadhā phālesiṁ, sakalikaṁ sakalikaṁ akāsiṁ, sakalikaṁ sakalikaṁ karitvā udukkhale koṭṭesiṁ, udukkhale koṭṭetvā mahāvāte opuniṁ:

“Ta sẽ tìm ra lửa,”
“appeva nāma aggiṁ adhigaccheyyan”ti.

nhưng con không tìm được lửa”.
Nevāhaṁ aggiṁ adhigacchin’ti.

Rồi người bện tóc thờ lửa ấy suy nghĩ:
Atha kho tassa aggikassa jaṭilassa etadahosi:

“Ðứa trẻ này thật ngu si và kém thông minh. Sao lại đi tìm lửa một cách thiếu suy tư như thế này?”
‘yāva bālo ayaṁ dārako abyatto, kathañhi nāma ayoniso aggiṁ gavesissatī’ti.

Trong khi đứa trẻ đứng nhìn, người ấy cầm đồ quây lửa, nhen lửa lên và nói với đứa trẻ:
Tassa pekkhamānassa araṇisahitaṁ gahetvā aggiṁ nibbattetvā taṁ dārakaṁ etadavoca:

“Này con, nhen lửa phải làm như vậy đó
‘evaṁ kho, tāta, aggi nibbattetabbo.

chớ không phải như con ngu si và kém thông minh, tìm lửa một cách thiếu suy tư.”
Na tveva yathā tvaṁ bālo abyatto ayoniso aggiṁ gavesī’ti.

Cũng vậy này Tôn chủ, Ngài ngu si, kém thông minh, đi tìm đời sau một cách kém suy tư.
Evameva kho tvaṁ, rājañña, bālo abyatto ayoniso paralokaṁ gavesissasi.

Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác kiến ấy!
Paṭinissajjetaṁ, rājañña, pāpakaṁ diṭṭhigataṁ; paṭinissajjetaṁ, rājañña, pāpakaṁ diṭṭhigataṁ.

Chớ có tự dấn thân vào sự bất an và đau khổ trường kỳ.
Mā te ahosi dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyā”ti.

Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, Tôi cũng không thể từ bỏ ác tà kiến này.
“Kiñcāpi bhavaṁ kassapo evamāha, atha kho nevāhaṁ sakkomi idaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ paṭinissajjituṁ.

Vua Pasenadi nước Kosala và vua các nước ngoài đã biết tôi như sau:
Rājāpi maṁ pasenadi kosalo jānāti tirorājānopi:

“Tôn chủ Pāyāsi có quan điểm, có tri kiến như thế này:
‘pāyāsi rājañño evaṁvādī evaṁdiṭṭhī:

“Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
“itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko”’ti.

Tôn giả Kassapa, nếu tôi từ bỏ ác tà kiến ấy người ta sẽ phê bình tôi như sau:
Sacāhaṁ, bho kassapa, idaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ paṭinissajjissāmi, bhavissanti me vattāro:

“Tôn chủ Pàyà thật là ngu si, kém thông minh, chấp kiến một cách sai lạc.”
‘yāva bālo pāyāsi rājañño abyatto duggahitagāhī’ti.

Vì tức giận, nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì lừa gạt nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy.
Kopenapi naṁ harissāmi, makkhenapi naṁ harissāmi, palāsenapi naṁ harissāmī”ti.

2.11. Ví Dụ Hai Vị Lãnh Đạo
2.11. Dvesatthavāhaupamā

Vậy này Tôn chủ, tôi sẽ cho Ngài một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṁ te karissāmi.

Ở đời một số người có trí, nhờ ví dụ mà hiểu ý nghĩa lời nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṁ ājānanti.

Này Tôn chủ, thuở xưa, một đoàn lữ hành lớn gồm một ngàn cỗ xe đi từ phương Ðông quốc độ qua phương Tây quốc độ.
Bhūtapubbaṁ, rājañña, mahāsakaṭasattho sakaṭasahassaṁ puratthimā janapadā pacchimaṁ janapadaṁ agamāsi.

Ði đến chỗ nào, đoàn lữ hành ấy cũng tiêu thụ rất mau cỏ, củi, nước và cây lá xanh tươi.
So yena yena gacchi, khippaṁyeva pariyādiyati tiṇakaṭṭhodakaṁ haritakapaṇṇaṁ.

Ðoàn lữ hành ấy có hai vị lãnh đạo, một vị lãnh đạo năm trăm cỗ xe, một vị lãnh đạo năm trăm cỗ xe.
Tasmiṁ kho pana satthe dve satthavāhā ahesuṁ eko pañcannaṁ sakaṭasatānaṁ, eko pañcannaṁ sakaṭasatānaṁ.

Hai vị lãnh đạo đoàn lữ hành suy nghĩ như sau:
Atha kho tesaṁ satthavāhānaṁ etadahosi:

“Ðoàn lữ hành lớn này gồm có một ngàn cỗ xe.
‘ayaṁ kho mahāsakaṭasattho sakaṭasahassaṁ;

Chỗ nào chúng ta đi tới thì đoàn tiêu thụ rất mau cỏ, củi, nước và cây lá xanh tươi.
te mayaṁ yena yena gacchāma, khippameva pariyādiyati tiṇakaṭṭhodakaṁ haritakapaṇṇaṁ.

Vậy chúng ta hãy chia đoàn lữ hành này thành hai, mỗi đoàn có năm trăm cỗ xe.”
Yannūna mayaṁ imaṁ satthaṁ dvidhā vibhajeyyāma— ekato pañca sakaṭasatāni ekato pañca sakaṭasatānī’ti.

Rồi hai vị lãnh đạo ấy chia đoàn lữ hành thành hai, một đoàn có năm trăm cỗ xe, một đoàn có năm trăm cỗ xe.
Te taṁ satthaṁ dvidhā vibhajiṁsu ekato pañca sakaṭasatāni, ekato pañca sakaṭasatāni.

Rồi một vị lãnh đạo thâu lượm rất nhiều cỏ, củi, nước và cho đoàn lữ hành chuyển bánh.
Eko satthavāho bahuṁ tiṇañca kaṭṭhañca udakañca āropetvā satthaṁ payāpesi.

Sau khi đi hai, ba ngày, vị lãnh đạo ấy thấy một người da đen, mắt đỏ, mang theo ống tên, đeo vòng hoa súng, áo quần ướt, tóc ướt, đánh một cỗ xe do lừa kéo, bánh xe dính đầy bùn và đi từ phía trước đi lại. Thấy vậy, người lãnh đạo hỏi:
Dvīhatīhapayāto kho pana so sattho addasa purisaṁ kāḷaṁ lohitakkhaṁ sannaddhakalāpaṁ kumudamāliṁ allavatthaṁ allakesaṁ kaddamamakkhitehi cakkehi bhadrena rathena paṭipathaṁ āgacchantaṁ, disvā etadavoca:

Bạn từ phương nào đến?
‘kuto, bho, āgacchasī’ti?

Từ nơi quốc độ kia đến.
‘Amukamhā janapadā’ti.

Bạn sẽ đi đâu?
‘Kuhiṁ gamissasī’ti?

Sẽ đi đến địa phương tên này.
‘Amukaṁ nāma janapadan’ti.

Bạn có thấy, trong khu rừng trước mặt, có mưa to gần đây không?
‘Kacci, bho, purato kantāre mahāmegho abhippavuṭṭho’ti?

Thưa bạn, trong khu rừng trước mặt có mưa to, đường xá đầy sũng những nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước.
‘Evaṁ, bho, purato kantāre mahāmegho abhippavuṭṭho, āsittodakāni vaṭumāni, bahu tiṇañca kaṭṭhañca udakañca.

Hãy quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc.”
Chaḍḍetha, bho, purāṇāni tiṇāni kaṭṭhāni udakāni, lahubhārehi sakaṭehi sīghaṁ sīghaṁ gacchatha, mā yoggāni kilamitthā’ti.

Khi ấy người lãnh đạo nói với những người đánh xe:
Atha kho so satthavāho satthike āmantesi:

Này các Bạn, người này nói như sau:
‘ayaṁ, bho, puriso evamāha:

“Trong khu rừng trước mặt có mưa to, đường sá đầy sũng nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước.
“purato kantāre mahāmegho abhippavuṭṭho, āsittodakāni vaṭumāni, bahu tiṇañca kaṭṭhañca udakañca.

Hãy quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc.”
Chaḍḍetha, bho, purāṇāni tiṇāni kaṭṭhāni udakāni, lahubhārehi sakaṭehi sīghaṁ sīghaṁ gacchatha, mā yoggāni kilamitthā”ti.

Vậy các bạn hãy quăng cỏ, củi và nước cũ đi, để đoàn xe đi với những cỗ xe nhẹ hơn.
Chaḍḍetha, bho, purāṇāni tiṇāni kaṭṭhāni udakāni, lahubhārehi sakaṭehi satthaṁ payāpethā’ti.

Thưa Bạn, vâng! Những người đánh xe vâng theo lời vị lãnh đạo đoàn lữ hành, quăng cỏ, củi và nước cũ đi và dẫn đoàn xe đi với những cỗ xe nhẹ hơn.
‘Evaṁ, bho’ti kho te satthikā tassa satthavāhassa paṭissutvā chaḍḍetvā purāṇāni tiṇāni kaṭṭhāni udakāni lahubhārehi sakaṭehi satthaṁ payāpesuṁ.

Nhưng khi đi đến trạm nghỉ thứ nhất, họ không thấy cỏ, củi hay nước,
Te paṭhamepi satthavāse na addasaṁsu tiṇaṁ vā kaṭṭhaṁ vā udakaṁ vā.

trạm thứ hai cũng vậy…
Dutiyepi satthavāse …

trạm thứ ba cũng vậy…
tatiyepi satthavāse …

trạm thứ tư cũng vậy…
catutthepi satthavāse …

trạm thứ năm cũng vậy…
pañcamepi satthavāse …

trạm thứ sáu cũng vậy…
chaṭṭhepi satthavāse …

trạm thứ bảy cũng vậy, họ không thấy cỏ, củi hay nước.
sattamepi satthavāse na addasaṁsu tiṇaṁ vā kaṭṭhaṁ vā udakaṁ vā.

Tất cả đều gặp sự bất hạnh và tai nạn.
Sabbeva anayabyasanaṁ āpajjiṁsu.

Tất cả người và vật trong lữ đoàn ấy, đều bị Dạ xoa, phi nhân ăn thịt,
Ye ca tasmiṁ satthe ahesuṁ manussā vā pasū vā, sabbe so yakkho amanusso bhakkhesi.

chỉ còn xương để lại.
Aṭṭhikāneva sesāni.

Khi người lãnh đạo đoàn thứ hai được biết:
Yadā aññāsi dutiyo satthavāho:

“Nay đoàn kia đi đã khá xa”, bèn cho thâu lượm nhiều cỏ, củi và nước và cho đoàn khởi hành.
‘bahunikkhanto kho, bho, dāni so sattho’ti bahuṁ tiṇañca kaṭṭhañca udakañca āropetvā satthaṁ payāpesi.

Sau khi đi hai, ba ngày, vị lãnh đạo ấy thấy một người da đen, mắt đỏ, mang theo ống tên, đeo vòng hoa súng, áo quần ướt, tóc ướt, đánh một cỗ xe do lừa kéo, bánh xa dính đầy bùn và đi từ phía trước đi lại. Thấy vậy người lãnh đạo hỏi:
Dvīhatīhapayāto kho pana so sattho addasa purisaṁ kāḷaṁ lohitakkhaṁ sannaddhakalāpaṁ kumudamāliṁ allavatthaṁ allakesaṁ kaddamamakkhitehi cakkehi bhadrena rathena paṭipathaṁ āgacchantaṁ, disvā etadavoca:

Bạn từ phương nào đến?
‘kuto, bho, āgacchasī’ti?

Từ nơi quốc độ kia đến.
‘Amukamhā janapadā’ti.

‘Bạn sẽ đi đâu?
‘Kuhiṁ gamissasī’ti?

Sẽ đi đến địa phương tên này.
‘Amukaṁ nāma janapadan’ti.

Bạn có thấy trong khu rừng trước mặt, có mưa to gần đây không?
‘Kacci, bho, purato kantāre mahāmegho abhippavuṭṭho’ti?

Thưa Bạn, trong khu rừng trước mặt, có mưa to, đường sá đầy sũng những nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước.
‘Evaṁ, bho, purato kantāre mahāmegho abhippavuṭṭho. Āsittodakāni vaṭumāni, bahu tiṇañca kaṭṭhañca udakañca.

Hãy quăng bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cỗ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ có làm cho đoàn xe mệt nhọc.
Chaḍḍetha, bho, purāṇāni tiṇāni kaṭṭhāni udakāni, lahubhārehi sakaṭehi sīghaṁ sīghaṁ gacchatha, mā yoggāni kilamitthā’ti.

Khi ấy người lãnh đạo nói với những người đánh xe:
Atha kho so satthavāho satthike āmantesi:

Này các Bạn, người này nói như sau:
‘ayaṁ, bho, puriso evamāha:

Trong khu rừng trước mặt có mưa to, đường sá đầy sũng nước, có nhiều cỏ, nhiều củi và nhiều nước.
“purato kantāre mahāmegho abhippavuṭṭho, āsittodakāni vaṭumāni, bahu tiṇañca kaṭṭhañca udakañca.

Hãy bỏ cỏ, củi và nước cũ đi, để cổ xe được nhẹ và đi cho mau. Chớ làm cho đoàn xe mệt nhọc.”
Chaḍḍetha, bho, purāṇāni tiṇāni kaṭṭhāni udakāni, lahubhārehi sakaṭehi sīghaṁ sīghaṁ gacchatha; mā yoggāni kilamitthā”ti.

Nhưng này các Bạn, người ấy không phải là bạn của chúng ta, cũng không phải là bà con ruột thịt, làm sao chúng ta có thể tin người ấy được?
Ayaṁ bho puriso neva amhākaṁ mitto, na ñātisālohito, kathaṁ mayaṁ imassa saddhāya gamissāma.

Chớ quăng bỏ các thứ cỏ, củi và nước đã dự trữ từ trước. Hãy cho đoàn lữ hành tiến tới với các hàng hóa đã được mang theo,
Na vo chaḍḍetabbāni purāṇāni tiṇāni kaṭṭhāni udakāni, yathābhatena bhaṇḍena satthaṁ payāpetha.

chúng ta không quăng bỏ đi các vật đang dự trữ từ trước.
Na no purāṇaṁ chaḍḍessāmā’ti.

Thưa Bạn, vâng. Những người đánh xe ấy, vâng theo lời người lãnh đạo, cho đoàn lữ hành tiến tới với những hàng hóa đã mang theo.
‘Evaṁ, bho’ti kho te satthikā tassa satthavāhassa paṭissutvā yathābhatena bhaṇḍena satthaṁ payāpesuṁ.

Ðến trạm nghĩ thứ nhất những người này không thấy cỏ, củi hay nước,
Te paṭhamepi satthavāse na addasaṁsu tiṇaṁ vā kaṭṭhaṁ vā udakaṁ vā.

đến trạm thứ hai cũng vậy…
Dutiyepi satthavāse …

trạm thứ ba cũng vậy…
tatiyepi satthavāse …

trạm thứ tư cũng vậy….
catutthepi satthavāse …

trạm thứ năm cũng vậy…
pañcamepi satthavāse …

trạm thứ sáu cũng vậy…
chaṭṭhepi satthavāse …

trạm thứ bảy cũng vậy, chúng không thấy cỏ, củi hay nước,
sattamepi satthavāse na addasaṁsu tiṇaṁ vā kaṭṭhaṁ vā udakaṁ vā.

nhưng chúng thấy đoàn lữ hành trước bị lâm vào tai nạn.
Tañca satthaṁ addasaṁsu anayabyasanaṁ āpannaṁ.

Những người và thú vật trong đoàn lữ hành kia, chúng thấy các bộ xương do con Dạ xoa phi nhân ấy ăn thịt.
Ye ca tasmiṁ satthepi ahesuṁ manussā vā pasū vā, tesañca aṭṭhikāneva addasaṁsu tena yakkhena amanussena bhakkhitānaṁ.

Rồi người lãnh đạo nói với các người đánh xe:
Atha kho so satthavāho satthike āmantesi:

Này các Bạn, đoàn lữ hành ấy bị lâm nạn vì bị người lãnh đạo ngu si như vậy hướng dẫn.
‘ayaṁ kho, bho, sattho anayabyasanaṁ āpanno, yathā taṁ tena bālena satthavāhena pariṇāyakena.

Vậy này các bạn, hãy bỏ đi những vật hạng ít giá trị của đoàn lữ hành này, hãy đem theo những vật hạng đắt giá của đoàn lữ hành kia!
Tena hi, bho, yānamhākaṁ satthe appasārāni paṇiyāni, tāni chaḍḍetvā, yāni imasmiṁ satthe mahāsārāni paṇiyāni, tāni ādiyathā’ti.

Thưa Bạn, vâng! Những người đánh xe ấy vâng theo người lãnh đạo quăng bỏ đi những vật hạng ít giá trị của đoàn lữ hành của mình, đem đi theo những vật hạng đắt giá của đoàn lữ hành kia và đi qua bãi sa mạc ấy một cách an toàn, vì được hướng dẫn bởi một vị lãnh đạo sáng suốt.
‘Evaṁ, bho’ti kho te satthikā tassa satthavāhassa paṭissutvā yāni sakasmiṁ satthe appasārāni paṇiyāni, tāni chaḍḍetvā yāni tasmiṁ satthe mahāsārāni paṇiyāni, tāni ādiyitvā sotthinā taṁ kantāraṁ nitthariṁsu, yathā taṁ paṇḍitena satthavāhena pariṇāyakena.

Cũng vậy này Tôn chủ, người ngu si không có trí sẽ gặp nạn vì đã đi tìm kiếm đời sau một cách thiếu suy tư, giống như người lãnh đạo đoàn lữ hành kia.
Evameva kho tvaṁ, rājañña, bālo abyatto anayabyasanaṁ āpajjissasi ayoniso paralokaṁ gavesanto, seyyathāpi so purimo satthavāho.

Những ai tự nghĩ có thể tin bất cứ điều gì được nghe sẽ gặp hoạn nạn như những người đánh xe kia.
Yepi tava sotabbaṁ saddhātabbaṁ maññissanti, tepi anayabyasanaṁ āpajjissanti, seyyathāpi te satthikā.

Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, bãy từ bỏ ác tà kiến này.
Paṭinissajjetaṁ, rājañña, pāpakaṁ diṭṭhigataṁ; paṭinissajjetaṁ, rājañña, pāpakaṁ diṭṭhigataṁ.

Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ bất hạnh lâu dài!”
Mā te ahosi dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyā”ti.

Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, tôi cũng không thể từ bỏ ác tà kiến này.
“Kiñcāpi bhavaṁ kassapo evamāha, atha kho nevāhaṁ sakkomi idaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ paṭinissajjituṁ.

Vua Pasenadi nước Kosala là vua các nước ngoài đã biết tôi như sau:
Rājāpi maṁ pasenadi kosalo jānāti tirorājānopi: ‘pāyāsi rājañño evaṁvādī evaṁdiṭṭhī:

“Tôn chủ Pāyāsi có quan điểm, có tri kiến như thế này:”Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo.”
“itipi natthi paro loko …pe… vipāko”’ti.

Tôn giả Kassapa, nếu tôi từ bỏ ác kiến ấy người ta sẽ phê bình tôi như sau:
Sacāhaṁ, bho kassapa, idaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ paṭinissajjissāmi, bhavissanti me vattāro:

“Tôn chủ Pāyāsi thật là ngu si, kém thông minh, chấp kiến một cách sai lạc.”
‘yāva bālo pāyāsi rājañño, abyatto duggahitagāhī’ti.

Vì tức giận nên tôi phải chấp chặt tà kiến sai lạc. Vì tức giận nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy.
Kopenapi naṁ harissāmi, makkhenapi naṁ harissāmi, palāsenapi naṁ harissāmī”ti.

2.12. Ví Dụ Người Chăn Heo
2.12. Gūthabhārikaupamā

Này Tôn chủ, vậy tôi sẽ kể một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṁ te karissāmi.

Ở đời nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa lời nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṁ ājānanti.

Thuở xưa có một người nuôi heo đi từ làng của mình đến một làng khác.
Bhūtapubbaṁ, rājañña, aññataro sūkaraposako puriso sakamhā gāmā aññaṁ gāmaṁ agamāsi.

Ở tại đấy, ông ta thấy một đống phân khô bị quăng bỏ.
Tattha addasa pahūtaṁ sukkhagūthaṁ chaḍḍitaṁ.

Thấy vậy, nó tự nghĩ:
Disvānassa etadahosi:

“Ðống phân khô khá nhiều bị quăng bỏ đi có thể làm đồ ăn cho các con heo của ta.
‘ayaṁ kho pahūto sukkhagūtho chaḍḍito, mama ca sūkarabhattaṁ;

Vậy ta hãy mang đống phân khô này đi.”
yannūnāhaṁ ito sukkhagūthaṁ hareyyan’ti.

Rồi ông ta trải áo choàng của nó mang đống phân khô lại, cột thành một gói đặt trên đầu rồi đi.
So uttarāsaṅgaṁ pattharitvā pahūtaṁ sukkhagūthaṁ ākiritvā bhaṇḍikaṁ bandhitvā sīse ubbāhetvā agamāsi.

Ði giữa đường, một cơn mưa lớn trái mùa xẩy ra.
Tassa antarāmagge mahāakālamegho pāvassi.

Ông mang bọc phân ấy đi, với phân thấm ướt tiết ra và chảy thành giọt, làm ông lem lấm phân cho đến đầu móng tay.
So uggharantaṁ paggharantaṁ yāva agganakhā gūthena makkhito gūthabhāraṁ ādāya agamāsi.

Mọi người thấy ông liền nói:
Tamenaṁ manussā disvā evamāhaṁsu:

“Ông có thật sự điên, thật sự khùng chăng? Làm sao ông lại mang bọc phân ấy đi, với nước phân thấm ướt tiết ra và chảy thành giọt, làm người lem lấm phân cho đến đầu móng tay.”
‘kacci no tvaṁ, bhaṇe, ummatto, kacci viceto, kathañhi nāma uggharantaṁ paggharantaṁ yāva agganakhā gūthena makkhito gūthabhāraṁ harissasī’ti.

Chính các Người mới thật sự điên, chính các Người mới thật sự khùng. Chính nhờ như thế này, các con heo của tôi mới có đồ ăn.”
‘Tumhe khvettha, bhaṇe, ummattā, tumhe vicetā, tathā hi pana me sūkarabhattan’ti.

Cũng vậy này Tôn chủ, Ngài nói chẳng khác gì ví dụ người mang phân này.
Evameva kho tvaṁ, rājañña, gūthabhārikūpamo maññe paṭibhāsi.

Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác kiến ấy.
Paṭinissajjetaṁ, rājañña, pāpakaṁ diṭṭhigataṁ; paṭinissajjetaṁ, rājañña, pāpakaṁ diṭṭhigataṁ.

Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ, bất hạnh lâu dài.
Mā te ahosi dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyā”ti.

Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, tôi cũng không thể từ bỏ ác tà kiến này.
“Kiñcāpi bhavaṁ kassapo evamāha, atha kho nevāhaṁ sakkomi idaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ paṭinissajjituṁ.

Vua Pasenadi nước Kosala và vua các nước ngoài đã biết tôi như sau:
Rājāpi maṁ pasenadi kosalo jānāti tirorājānopi:

“Tôn chủ Pāyāsi có quan điểm, có tri kiến như thế này: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”.
‘pāyāsi rājañño evaṁvādī evaṁdiṭṭhī: “itipi natthi paro loko …pe… vipāko”’ti.

Tôn giả Kassapa, nếu tôi từ bỏ ác tà kiến ấy người ta sẽ phê bình tôi như sau:
Sacāhaṁ, bho kassapa, idaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ paṭinissajjissāmi, bhavissanti me vattāro:

“Tôn chủ Pāyāsi thật là ngu si, kém thông minh, chấp kiến một cách sai lạc.”
‘yāva bālo pāyāsi rājañño abyatto duggahitagāhī’ti.

Vì tức giận nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì lừa gạt nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy.
Kopenapi naṁ harissāmi, makkhenapi naṁ harissāmi, palāsenapi naṁ harissāmī”ti.

2.13. Ví Dụ Con Xúc Xắc
2.13. Akkhadhuttakaupamā

Này Tôn chủ, vậy tôi sẽ kể một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṁ te karissāmi,

Ở đời nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa lời nói.
upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṁ ājānanti.

Thuở xưa, có hai người đánh bạc đổ con xúc xắc.
Bhūtapubbaṁ, rājañña, dve akkhadhuttā akkhehi dibbiṁsu.

Một con bạc mỗi lần thua liền ngậm con xúc xắc thất bại.
Eko akkhadhutto āgatāgataṁ kaliṁ gilati.

Con bạc thứ hai thấy con bạc ấy mỗi lần thua liền ngậm con xúc xắc thất bại. Thấy vậy người này bàn với người kia:
Addasā kho dutiyo akkhadhutto taṁ akkhadhuttaṁ āgatāgataṁ kaliṁ gilantaṁ, disvā taṁ akkhadhuttaṁ etadavoca:

“Này Bạn, Bạn đã thắng rõ ràng. Bạn hãy đưa cho tôi các con xúc xắc để đi làm lễ tế.”
‘tvaṁ kho, samma, ekantikena jināsi, dehi me, samma, akkhe pajohissāmī’ti.

“Thưa Bạn, vâng!”, con bạc ấy liền đưa các con xúc xắc cho con bạc kia.
‘Evaṁ, sammā’ti kho so akkhadhutto tassa akkhadhuttassa akkhe pādāsi.

Người này bèn lấy thuốc độc thoa vào các con xúc xắc và nói với người kia:
Atha kho so akkhadhutto akkhe visena paribhāvetvā taṁ akkhadhuttaṁ etadavoca:

“Này Bạn, hãy chơi đổ các con xúc xắc.”
‘ehi kho, samma, akkhehi dibbissāmā’ti.

“Thưa Bạn, vâng!”, con bạc ấy vâng theo lời của con bạc kia.
‘Evaṁ, sammā’ti kho so akkhadhutto tassa akkhadhuttassa paccassosi.

Lần thứ hai, hai con bạc ấy đổ con xúc xắc,
Dutiyampi kho te akkhadhuttā akkhehi dibbiṁsu.

lần thứ hai , con bạc này mỗi lần thua liền ngậm con xúc xắc thất bại.
Dutiyampi kho so akkhadhutto āgatāgataṁ kaliṁ gilati.

Con bạc thứ hai thấy con bạc kia, lần thứ hai, mỗi lần thua ngậm con xúc xắc thất bại. Thấy vậy, người ấy nói với con bạc kia:
Addasā kho dutiyo akkhadhutto taṁ akkhadhuttaṁ dutiyampi āgatāgataṁ kaliṁ gilantaṁ, disvā taṁ akkhadhuttaṁ etadavoca:

“Xúc xắc ngậm không hay
‘Littaṁ paramena tejasā,
Chúng tẩm đầy kịch độc
Gilamakkhaṁ puriso na bujjhati;
Ngậm đi, kẻ lừa đảo
Gila re gila pāpadhuttaka,
Ngươi sẽ chịu khổ đau.”
Pacchā te kaṭukaṁ bhavissatī’ti.

Cũng vậy này Tôn chủ. Ngài nói chẳng khác gì ví dụ người đánh bạc.
Evameva kho tvaṁ, rājañña, akkhadhuttakūpamo maññe paṭibhāsi.

Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy.
Paṭinissajjetaṁ, rājañña, pāpakaṁ diṭṭhigataṁ; paṭinissajjetaṁ, rājañña, pāpakaṁ diṭṭhigataṁ.

Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ, bất hạnh lâu dài.
Mā te ahosi dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyā”ti.

Dầu Tôn giả Kassapa có nói như vậy, tôi cũng không thể từ bỏ ác tà kiến này.
“Kiñcāpi bhavaṁ kassapo evamāha, atha kho nevāhaṁ sakkomi idaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ paṭinissajjituṁ.

Vua Pasenadi nước Kosala và vua các nước ngoài đã biết tôi như sau: “Tôn chủ Pāyāsi có quan điểm, có tri kiến như thế này: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo!”
Rājāpi maṁ pasenadi kosalo jānāti tirorājānopi: ‘pāyāsi rājañño evaṁvādī evaṁdiṭṭhī: “itipi natthi paro loko …pe… vipāko”’ti.

Tôn giả Kassapa, nếu tôi từ bỏ ác tà kiến ấy, người ta sẽ phê bình tôi như sau:
Sacāhaṁ, bho kassapa, idaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ paṭinissajjissāmi, bhavissanti me vattāro:

“Tôn chủ Pāyāsi thật ngu si, kém thông minh, chấp kiến một cách sai lạc”.
‘yāva bālo pāyāsi rājañño abyatto duggahitagāhī’ti.

Vì tức giận nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì lường gạt nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy. Vì tự trọng nên tôi phải chấp chặt tà kiến ấy!
Kopenapi naṁ harissāmi, makkhenapi naṁ harissāmi, palāsenapi naṁ harissāmī”ti.

2.14. Ví Dụ Người Mang Bó Gái
2.14. Sāṇabhārikaupamā

“Này Tôn chủ, vậy tôi sẽ kể một ví dụ.
“Tena hi, rājañña, upamaṁ te karissāmi,

Ở đời nhờ ví dụ, một số người có trí hiểu được ý nghĩa lời nói.
upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṁ ājānanti.

Thuở xưa, một quốc gia dời đi chỗ khác.
Bhūtapubbaṁ, rājañña, aññataro janapado vuṭṭhāsi.

Một người nói với các bạn thuộc hạ của mình:
Atha kho sahāyako sahāyakaṁ āmantesi:

“Này các Bạn, chúng ta hãy đi đến quốc gia kia, rất có thể chúng ta tìm được tiền bạc của cải.”
‘āyāma, samma, yena so janapado tenupasaṅkamissāma, appeva nāmettha kiñci dhanaṁ adhigaccheyyāmā’ti.

“Thưa Bạn, vâng!”, các thuộc hạ vâng lời người bạn kia.
‘Evaṁ, sammā’ti kho sahāyako sahāyakassa paccassosi.

Họ đi đến quốc gia kia, và đến một đường làng. Họ thấy một đống gai, quăng bỏ. Thấy vậy, một người bạn nói với các người kia:
Te yena so janapado, yena aññataraṁ gāmapaṭṭaṁ tenupasaṅkamiṁsu, tattha addasaṁsu pahūtaṁ sāṇaṁ chaḍḍitaṁ, disvā sahāyako sahāyakaṁ āmantesi:

“Ðây là một đống gai quăng bỏ. Bạn hãy nhóm lại thành một bó. Tôi cũng nhóm lại thành một bó gai. Chúng ta hãy đem bó gai ấy đi.”
‘idaṁ kho, samma, pahūtaṁ sāṇaṁ chaḍḍitaṁ, tena hi, samma, tvañca sāṇabhāraṁ bandha, ahañca sāṇabhāraṁ bandhissāmi, ubho sāṇabhāraṁ ādāya gamissāmā’ti.

“Thưa Bạn, vâng!”, người bạn này vâng theo người bạn kia và cột bó gai lại. Họ mang hai bó gai, và đi đến một làng khác.
‘Evaṁ, sammā’ti kho sahāyako sahāyakassa paṭissutvā sāṇabhāraṁ bandhitvā te ubho sāṇabhāraṁ ādāya yena aññataraṁ gāmapaṭṭaṁ tenupasaṅkamiṁsu.

Họ thấy một đống dây gai quăng bỏ. Thấy vậy một người bạn nói với người kia:
Tattha addasaṁsu pahūtaṁ sāṇasuttaṁ chaḍḍitaṁ, disvā sahāyako sahāyakaṁ āmantesi:

“Ðống dây gai quăng bỏ này thật đúng với điều chúng ta muốn làm với bó dây gai ấy.
‘yassa kho, samma, atthāya iccheyyāma sāṇaṁ, idaṁ pahūtaṁ sāṇasuttaṁ chaḍḍitaṁ.

Vậy bạn hãy nhóm lại thành một bó dây gai. Tôi cũng nhóm lại thành một bó dây gai. Chúng ta hãy đem hai bó dây gai ấy đi.”
Tena hi, samma, tvañca sāṇabhāraṁ chaḍḍehi, ahañca sāṇabhāraṁ chaḍḍessāmi, ubho sāṇasuttabhāraṁ ādāya gamissāmā’ti.

“Này Bạn, tôi đem đống dây gai này từ xa lại, và đống dây gai được bó buộc kỹ lưỡng. Ðối với tôi, như vậy là vừa đủ, bạn hãy tự biết (mà làm).”
‘Ayaṁ kho me, samma, sāṇabhāro dūrābhato ca susannaddho ca, alaṁ me, tvaṁ pajānāhī’ti.

Và người bạn trước quăng bó dây gai và lấy đống dây gai.
Atha kho so sahāyako sāṇabhāraṁ chaḍḍetvā sāṇasuttabhāraṁ ādiyi.

Rồi họ đến một con đường khác.
Te yena aññataraṁ gāmapaṭṭaṁ tenupasaṅkamiṁsu.

Ở đấy họ thấy nhiều vải gai được quăng bỏ. Thấy vậy, một người bạn nói với người kia:
Tattha addasaṁsu pahūtā sāṇiyo chaḍḍitā, disvā sahāyako sahāyakaṁ āmantesi:

“Nhiều vải gai được quăng bỏ này thật đúng với điều chúng ta muốn làm với cây gai hoặc với dây gai.
‘yassa kho, samma, atthāya iccheyyāma sāṇaṁ vā sāṇasuttaṁ vā, imā pahūtā sāṇiyo chaḍḍitā.

Vậy Bạn hãy quăng bỏ bao cây gai, và tôi sẽ quăng bỏ bao dây gai. Hai chúng ta sẽ mang bao vải gai này mà đi.”
Tena hi, samma, tvañca sāṇabhāraṁ chaḍḍehi, ahañca sāṇasuttabhāraṁ chaḍḍessāmi, ubho sāṇibhāraṁ ādāya gamissāmā’ti.

“Này Bạn, tôi đem đống dây gai này từ xa lại và đống dây gai được buộc bó kỹ lưỡng. Ðối với tôi, như vậy là vừa đủ. Bạn hãy tự biết (mà làm).”
‘Ayaṁ kho me, samma, sāṇabhāro dūrābhato ca susannaddho ca, alaṁ me, tvaṁ pajānāhī’ti.

Và người bạn trước quăng bỏ dây gai và lấy bó vải gai.
Atha kho so sahāyako sāṇasuttabhāraṁ chaḍḍetvā sāṇibhāraṁ ādiyi.

Rồi họ đến một con đường khác.
Te yena aññataraṁ gāmapaṭṭaṁ tenupasaṅkamiṁsu.

nhiều đống lanh (linen) được quăng bỏ, sau khi thấy…
Tattha addasaṁsu pahūtaṁ khomaṁ chaḍḍitaṁ, disvā …pe…

nhiều dây lanh được quăng bỏ, sau khi thấy…
pahūtaṁ khomasuttaṁ chaḍḍitaṁ, disvā …

nhiều vải lanh được quăng bỏ, sau khi thấy…
pahūtaṁ khomadussaṁ chaḍḍitaṁ, disvā …

nhiều sợi bông được quăng bỏ, sau khi thấy…
pahūtaṁ kappāsaṁ chaḍḍitaṁ, disvā …

nhiều cây bông được quăng bỏ, sau khi thấy…
pahūtaṁ kappāsikasuttaṁ chaḍḍitaṁ, disvā …

nhiều vải bông được quăng bỏ, sau khi thấy…
pahūtaṁ kappāsikadussaṁ chaḍḍitaṁ, disvā …

nhiều sắt được quăng bỏ, sau khi thấy…
pahūtaṁ ayaṁ chaḍḍitaṁ, disvā …

nhiều đồng được quăng bỏ, sau khi thấy…
pahūtaṁ lohaṁ chaḍḍitaṁ, disvā …

nhiều thiếc được quăng bỏ, sau khi thấy…
pahūtaṁ tipuṁ chaḍḍitaṁ, disvā …

nhiều chì được quăng bỏ, sau khi thấy…
pahūtaṁ sīsaṁ chaḍḍitaṁ, disvā …

nhiều bạc được quăng bỏ, sau khi thấy…
pahūtaṁ sajjhaṁ chaḍḍitaṁ, disvā …

nhiều vàng được quăng bỏ. Sau khi thấy một người bạn nói với người bạn kia:
pahūtaṁ suvaṇṇaṁ chaḍḍitaṁ, disvā sahāyako sahāyakaṁ āmantesi:

“Nhiều vàng được quăng bỏ này thật đúng với điều chúng ta muốn làm với cây gai hay với dây gai, hay với vải lanh, hay với cây bông, hay với vải bông, hay với sắt, hay với đồng, hay với thiếc, hay với chì, hay với bạc.
‘yassa kho, samma, atthāya iccheyyāma sāṇaṁ vā sāṇasuttaṁ vā sāṇiyo vā khomaṁ vā khomasuttaṁ vā khomadussaṁ vā kappāsaṁ vā kappāsikasuttaṁ vā kappāsikadussaṁ vā ayaṁ vā lohaṁ vā tipuṁ vā sīsaṁ vā sajjhaṁ vā, idaṁ pahūtaṁ suvaṇṇaṁ chaḍḍitaṁ.

Vậy bạn hãy quăng bỏ bao cây gai, và tôi sẽ quăng bỏ bao bạc. Hai chúng ta sẽ mang bao vàng mà đi.”
Tena hi, samma, tvañca sāṇabhāraṁ chaḍḍehi, ahañca sajjhabhāraṁ chaḍḍessāmi, ubho suvaṇṇabhāraṁ ādāya gamissāmā’ti.

“Này bạn, tôi đem bao cây gai này từ xa lại, và đống gai được bó buộc ký lưỡng. Ðối với tôi, như vậy là vừa đủ. Bạn hãy tự biết (mà làm).”
‘Ayaṁ kho me, samma, sāṇabhāro dūrābhato ca susannaddho ca, alaṁ me tvaṁ pajānāhī’ti.

Và người bạn trước quăng bao bạc và lấy bao vàng.
Atha kho so sahāyako sajjhabhāraṁ chaḍḍetvā suvaṇṇabhāraṁ ādiyi.

Cả hai về đến làng của mình.
Te yena sako gāmo tenupasaṅkamiṁsu.

Người bạn đem bao cây gai về, cha mẹ người ấy không được vui vẻ, vợ con người ấy không được vui, bạn bè người ấy không được vui vẻ, và do vậy anh ta không được hạnh phúc, hoan hỷ.
Tattha yo so sahāyako sāṇabhāraṁ ādāya agamāsi, tassa neva mātāpitaro abhinandiṁsu, na puttadārā abhinandiṁsu, na mittāmaccā abhinandiṁsu, na ca tatonidānaṁ sukhaṁ somanassaṁ adhigacchi.

Còn người bạn đem bao vàng về, cha mẹ người ấy được vui vẻ, vợ con người ấy được vui vẻ, bạn bè người ấy được vui vẻ và do vậy người ấy được hạnh phúc hoan hỷ.
Yo pana so sahāyako suvaṇṇabhāraṁ ādāya agamāsi, tassa mātāpitaropi abhinandiṁsu, puttadārāpi abhinandiṁsu, mittāmaccāpi abhinandiṁsu, tatonidānañca sukhaṁ somanassaṁ adhigacchi.

Cũng vậy Tôn chủ, Ngài nói không khác gì ví dụ người mang bao cây gai.
Evameva kho tvaṁ, rājañña, sāṇabhārikūpamo maññe paṭibhāsi.

Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy. Này Tôn chủ, hãy từ bỏ ác tà kiến ấy.
Paṭinissajjetaṁ, rājañña, pāpakaṁ diṭṭhigataṁ; paṭinissajjetaṁ, rājañña, pāpakaṁ diṭṭhigataṁ.

Chớ để chúng đưa Ngài vào đau khổ, bất hạnh lâu dài.
Mā te ahosi dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyā”ti.

3. Quy Y
3. Saraṇagamana

Với ví dụ đầu tiên của Tôn giả Kassapa tôi đã hoan hỷ, thỏa mãn,
“Purimeneva ahaṁ opammena bhoto kassapassa attamano abhiraddho.

nhưng tôi muốn nghe những câu hỏi đáp thông minh ấy vì tôi xem Tôn giả Kassapa như người đáng được đối lập.
Api cāhaṁ imāni vicitrāni pañhāpaṭibhānāni sotukāmo evāhaṁ bhavantaṁ kassapaṁ paccanīkaṁ kātabbaṁ amaññissaṁ.

Thật kỳ diệu thay, Tôn giả Kassapa! Thật hy hữu thay, Tôn giả Kassapa!
Abhikkantaṁ, bho kassapa, abhikkantaṁ, bho kassapa.

Tôn giả Kassapa, như một người giơ ra vật gì bị che kín, hay như người hướng dẫn cho kẻ bị lạc đường, hay như người đem đèn vào trong bóng tối cho người có mắt được thấy sắc, cũng vậy Chánh pháp được Tôn giả Kassapa dùng nhiều cách trình bày.
Seyyathāpi, bho kassapa, nikkujjitaṁ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṁ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṁ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṁ dhāreyya: ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti; evamevaṁ bhotā kassapena anekapariyāyena dhammo pakāsito.

Tôn giả Kassapa, nay con quy y Thế Tôn Gotama, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ kheo Tăng,
Esāhaṁ, bho kassapa, taṁ bhavantaṁ gotamaṁ saraṇaṁ gacchāmi, dhammañca, bhikkhusaṅghañca.

Tôn giả Kassapa, hãy nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến trọn đời xin nhận Ngài làm chỗ y chỉ.
Upāsakaṁ maṁ bhavaṁ kassapo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṁ saraṇaṁ gataṁ.

Tôn giả Kassapa, con muốn tổ chức một đại lễ tế đàn. Tôn giả Kassapa hãy giảng dạy cho con để con được hưởng hạnh phúc an lạc lâu dài.
Icchāmi cāhaṁ, bho kassapa, mahāyaññaṁ yajituṁ, anusāsatu maṁ bhavaṁ kassapo, yaṁ mamassa dīgharattaṁ hitāya sukhāyā”ti.

4. Sự Cúng Tế
4. Yaññakathā

Này Tôn chủ, tại tế đàn có trâu bò bị giết, hay các loại sinh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, này Tôn chủ, tế đàn ấy không đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, không được quảng bá rộng lớn.
“Yathārūpe kho, rājañña, yaññe gāvo vā haññanti ajeḷakā vā haññanti, kukkuṭasūkarā vā haññanti, vividhā vā pāṇā saṅghātaṁ āpajjanti, paṭiggāhakā ca honti micchādiṭṭhī micchāsaṅkappā micchāvācā micchākammantā micchāājīvā micchāvāyāmā micchāsatī micchāsamādhī, evarūpo kho, rājañña, yañño na mahapphalo hoti na mahānisaṁso na mahājutiko na mahāvipphāro.

Này Tôn chủ, cũng như người làm ruộng đi vào rừng đem theo hột giống và cày.
Seyyathāpi, rājañña, kassako bījanaṅgalaṁ ādāya vanaṁ paviseyya.

Và trên một khoảng đất không cày bừa, không có màu mỡ, giữa những gốc cây chưa được đào lên, người ấy gieo những hột giống xuống, những hột giống ấy bị hư sứt, bị thúi mục, bị gió và sức nóng phá hại, trái mùa, không có điều kiện thuận tiện,
So tattha dukkhette dubbhūme avihatakhāṇukaṇṭake bījāni patiṭṭhāpeyya khaṇḍāni pūtīni vātātapahatāni asāradāni asukhasayitāni.

và thần mưa không cho mưa đúng thời.
Devo ca na kālena kālaṁ sammādhāraṁ anuppaveccheyya.

Vậy các hột giống ấy có thể lớn lên, trưởng thành lên và sum sê hoa lá lên hoặc người làm ruộng ấy gặt hái được nhiều kết quả không?
Api nu tāni bījāni vuddhiṁ virūḷhiṁ vepullaṁ āpajjeyyuṁ, kassako vā vipulaṁ phalaṁ adhigaccheyyā”ti?

Tôn giả Kassapa, không thể được.
“No hidaṁ, bho kassapa”.

Cũng vậy, này Tôn giả, tại tế đàn nào có trâu bò bị giết hay các loại dê bị giết, hay gà và heo bị giết, hay các loại sinh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Này Tôn chủ, tế đàn ấy không đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, không được quảng bá rộng lớn.
“Evameva kho, rājañña, yathārūpe yaññe gāvo vā haññanti, ajeḷakā vā haññanti, kukkuṭasūkarā vā haññanti, vividhā vā pāṇā saṅghātaṁ āpajjanti, paṭiggāhakā ca honti micchādiṭṭhī micchāsaṅkappā micchāvācā micchākammantā micchāājīvā micchāvāyāmā micchāsatī micchāsamādhī, evarūpo kho, rājañña, yañño na mahapphalo hoti na mahānisaṁso na mahājutiko na mahāvipphāro.

Này Tôn chủ, tại tế đàn nào không có trâu bò bị giết, không có các loại dê bị giết, không có gà heo bị giết, không có các loại sanh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; này Tôn chủ, tế đàn ấy đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, được quảng bá rộng lớn.
Yathārūpe ca kho, rājañña, yaññe neva gāvo haññanti, na ajeḷakā haññanti, na kukkuṭasūkarā haññanti, na vividhā vā pāṇā saṅghātaṁ āpajjanti, paṭiggāhakā ca honti sammādiṭṭhī sammāsaṅkappā sammāvācā sammākammantā sammāājīvā sammāvāyāmā sammāsatī sammāsamādhī, evarūpo kho, rājañña, yañño mahapphalo hoti mahānisaṁso mahājutiko mahāvipphāro.

Này Tôn chủ, cũng như một người làm ruộng đi vào rừng đem theo hột giống và cày.
Seyyathāpi, rājañña, kassako bījanaṅgalaṁ ādāya vanaṁ paviseyya.

Và trên một khoảng đất có cày bừa, có màu mỡ, giữa những gốc cây đã được đào lên, người ấy gieo những hột giống xuống, những hột giống ấy không bị hư sứt, không bị thúi mục, không bị gió và sức nóng phá hại, thuận mùa, có điều kiện thuận lợi
So tattha sukhette subhūme suvihatakhāṇukaṇṭake bījāni patiṭṭhapeyya akhaṇḍāni apūtīni avātātapahatāni sāradāni sukhasayitāni.

Và thần mưa cho mưa đúng thời.
Devo ca kālena kālaṁ sammādhāraṁ anuppaveccheyya.

Vậy các hột giống ấy có thể lớn lên, trưởng thành lên, sum sê hoa lá, hoặc người làm ruộng ấy gặt hái được nhiều kết quả không?
Api nu tāni bījāni vuddhiṁ virūḷhiṁ vepullaṁ āpajjeyyuṁ, kassako vā vipulaṁ phalaṁ adhigaccheyyā”ti?

Tôn giả Kassapa, thật được như vậy.
“Evaṁ, bho kassapa”.

Cũng vậy, này Tôn chủ, tại tế đàn nào mà không có trâu bò bị giết, không có các loại dê bị giết, không có gà heo bị giết, không có các loại sanh vật khác bị giết, và những ai tham dự tế đàn ấy là những vị có Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; này Tôn chủ, tế đàn ấy đem lại quả báo lớn, lợi ích lớn, danh tiếng lớn, được quảng bá rộng lớn.
“Evameva kho, rājañña, yathārūpe yaññe neva gāvo haññanti, na ajeḷakā haññanti, na kukkuṭasūkarā haññanti, na vividhā vā pāṇā saṅghātaṁ āpajjanti, paṭiggāhakā ca honti sammādiṭṭhī sammāsaṅkappā sammāvācā sammākammantā sammāājīvā sammāvāyāmā sammāsatī sammāsamādhī, evarūpo kho, rājañña, yañño mahapphalo hoti mahānisaṁso mahājutiko mahāvipphāro”ti.

5. Câu Chuyện Thanh Niên Uttara
5. Uttaramāṇavavatthu

Rồi Tôn chủ Pāyāsi tổ chức bố thí cho các vị Sa môn, Bà -la-môn, cho những người nghèo, những người vô gia cư, những người ăn mày
Atha kho pāyāsi rājañño dānaṁ paṭṭhapesi samaṇabrāhmaṇakapaṇaddhikavaṇibbakayācakānaṁ.

Trong cuộc bố thí này, các món ăn như thế này được đem cho như cháo, đồ ăn phế thải, vải thô với những viền bằng hình tròn.
Tasmiṁ kho pana dāne evarūpaṁ bhojanaṁ dīyati kaṇājakaṁ bilaṅgadutiyaṁ, dhorakāni ca vatthāni guḷavālakāni.

Trong cuộc bố thí này, có vị thanh niên tên Uttara bị bỏ qua.
Tasmiṁ kho pana dāne uttaro nāma māṇavo vāvaṭo ahosi.

Sau khi cuộc bố thí đã xong, vị nầy nói ngạo như sau:
So dānaṁ datvā evaṁ anuddisati:

“Với cuộc bố thí này, ta được gặp Tôn chủ Pāyāsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau.”
“imināhaṁ dānena pāyāsiṁ rājaññameva imasmiṁ loke samāgacchiṁ, mā parasmin”ti.

Tôn chủ Pāyāssi nghe:
Assosi kho pāyāsi rājañño:

Thanh niên Uttàra sau khi cuộc bố thí đã xong, có nói ngạo:
“uttaro kira māṇavo dānaṁ datvā evaṁ anuddisati:

“Với cuộc bố thí này, ta được gặp Tôn chủ Pāyāsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau”.
‘imināhaṁ dānena pāyāsiṁ rājaññameva imasmiṁ loke samāgacchiṁ, mā parasmin’”ti.

Liền cho mời thanh niên Uttara và nói:
Atha kho pāyāsi rājañño uttaraṁ māṇavaṁ āmantāpetvā etadavoca:

Này Thân hữu Uttara, có thật chăng, sau khi cuộc bố thí đã xong, Ngươi có nói ngạo:
“saccaṁ kira tvaṁ, tāta uttara, dānaṁ datvā evaṁ anuddisasi:

“Với cuộc bố thí này, ta gặp được Tôn chủ Pāyāsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau”?
‘imināhaṁ dānena pāyāsiṁ rājaññameva imasmiṁ loke samāgacchiṁ, mā parasmin’”ti?

“Thật có vậy, này Tôn chủ!”
“Evaṁ, bho”.

Này Thân hữu Uttara, tại sao, sau cuộc bố thí Ngươi lại nói ngạo như vậy: “Với cuộc bố thí này, ta được gặp Tôn chủ Pāyāsi trong đời này, nhưng không gặp trong đời sau”?
“Kissa pana tvaṁ, tāta uttara, dānaṁ datvā evaṁ anuddisasi: ‘imināhaṁ dānena pāyāsiṁ rājaññameva imasmiṁ loke samāgacchiṁ, mā parasmin’ti?

Này Thân hữu Uttara, có phải chúng ta đi tìm công đức đều trông mong kết quả của cuộc bố thí?
Nanu mayaṁ, tāta uttara, puññatthikā dānasseva phalaṁ pāṭikaṅkhino”ti?

Này Tôn chủ, trong cuộc bố thí của Ngài, các món ăn như thế này được đem cho như cháo, đồ ăn phế thải, các món ăn này được Ngài không muốn lấy bàn chân của Ngài đụng đến, huống nữa là ăn; vải thô với những nền bằng hình tròn, các thứ vải này Ngài không muốn lấy bàn chân của Ngài đụng đến, huống nữa là mặc.
“Bhoto kho dāne evarūpaṁ bhojanaṁ dīyati kaṇājakaṁ bilaṅgadutiyaṁ, yaṁ bhavaṁ pādāpi na iccheyya samphusituṁ, kuto bhuñjituṁ, dhorakāni ca vatthāni guḷavālakāni, yāni bhavaṁ pādāpi na iccheyya samphusituṁ, kuto paridahituṁ.

Tôn chủ, Ngài là người thân và kính mến của chúng tôi. Như thế nào, chúng tôi có thể phối hợp cái gì thân yêu và kính mến với cái gì không thân yêu?
Bhavaṁ kho panamhākaṁ piyo manāpo, kathaṁ mayaṁ manāpaṁ amanāpena saṁyojemā”ti?

Vậy này Thân hữu Uttara, hãy phân phát các món ăn giống như các món tôi ăn,
“Tena hi tvaṁ, tāta uttara, yādisāhaṁ bhojanaṁ bhuñjāmi, tādisaṁ bhojanaṁ paṭṭhapehi.

hãy phân phát các vải mặc, giống như các thứ vải mà tôi mặc.
Yādisāni cāhaṁ vatthāni paridahāmi, tādisāni ca vatthāni paṭṭhapehī”ti.

Xin vâng, Tôn chủ! Thanh niên Uttara vâng theo lời Tôn chủ Pāyāsi, đem phân phát những món ăn giống như các món tôn chủ Pāyāsi ăn, đem phân phát các thứ vải, giống như các thứ vải tôn chủ Pāyāsi mặc.
“Evaṁ, bho”ti kho uttaro māṇavo pāyāsissa rājaññassa paṭissutvā yādisaṁ bhojanaṁ pāyāsi rājañño bhuñjati, tādisaṁ bhojanaṁ paṭṭhapesi. Yādisāni ca vatthāni pāyāsi rājañño paridahati, tādisāni ca vatthāni paṭṭhapesi.

Tôn chủ Pāyāsi vì đã bố thí không được cho hoàn vị, vì đã bố thí không tự tay mình làm, vì đã bố thí không có suy tư, vì đã bố thí các đồ vật phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Ðại Thiên vương, trong cung điện trống không của Serisaka.
Atha kho pāyāsi rājañño asakkaccaṁ dānaṁ datvā asahatthā dānaṁ datvā acittīkataṁ dānaṁ datvā apaviddhaṁ dānaṁ datvā kāyassa bhedā paraṁ maraṇā cātumahārājikānaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapajji suññaṁ serīsakaṁ vimānaṁ.

Còn thanh niên Uttara bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, vì đã bố thí một cách hoàn bị, vì đã bố thí tự tay mình làm, vì đã bố thí có suy tư, vì đã bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên.
Yo pana tassa dāne vāvaṭo ahosi uttaro nāma māṇavo. So sakkaccaṁ dānaṁ datvā sahatthā dānaṁ datvā cittīkataṁ dānaṁ datvā anapaviddhaṁ dānaṁ datvā kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajji devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sahabyataṁ.

6. Chư Thiên Pāyāsi
6. Pāyāsidevaputta

Lúc bấy giờ tôn giả Gavampati (Ngưu Chủ) thường hay đi nghỉ trưa trong cung điện trống không của Serisaka.
Tena kho pana samayena āyasmā gavampati abhikkhaṇaṁ suññaṁ serīsakaṁ vimānaṁ divāvihāraṁ gacchati.

Nay Thiên tử Pāyāssi đi đón tôn giả Gavampati, đảnh lễ ngài, và đứng một bên. Tôn giả Gavampati nói với Thiên tử Pāyāsi đang đứng một bên:
Atha kho pāyāsi devaputto yenāyasmā gavampati tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṁ gavampatiṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhitaṁ kho pāyāsiṁ devaputtaṁ āyasmā gavampati etadavoca:

Hiền giả là ai?
“kosi tvaṁ, āvuso”ti?

Bạch Tôn giả, con là tôn chủ Pāyāsi.
“Ahaṁ, bhante, pāyāsi rājañño”ti.

Này Hiền giả, có phải Ngươi có tà kiến như sau: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiện ác không có quả báo”?
“Nanu tvaṁ, āvuso, evaṁdiṭṭhiko ahosi: ‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’”ti?

Bạch Tôn giả, con có tà kiến như vậy: “Không có đời sau, không có các loại hóa sanh, hành vi thiên ác không có quả báo”,
“Saccāhaṁ, bhante, evaṁdiṭṭhiko ahosiṁ: ‘itipi natthi paro loko, natthi sattā opapātikā, natthi sukatadukkaṭānaṁ kammānaṁ phalaṁ vipāko’ti.

nhưng nhờ tôn giả Kumàra Kassapa, con tự thoát ly ra khỏi ác tà kiến ấy.
Api cāhaṁ ayyena kumārakassapena etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecito”ti.

Này Hiền giả, còn thanh niên Uttara bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, được thác sanh ở đâu?
“Yo pana te, āvuso, dāne vāvaṭo ahosi uttaro nāma māṇavo, so kuhiṁ upapanno”ti?

Bạch Tôn giả, thanh niên Uttara bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, vì đã bố thí một cách hoàn bị, vì đã bố thí tự tay mình làm, vì đã bố thí có suy tư, vì đã bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên.
“Yo me, bhante, dāne vāvaṭo ahosi uttaro nāma māṇavo, so sakkaccaṁ dānaṁ datvā sahatthā dānaṁ datvā cittīkataṁ dānaṁ datvā anapaviddhaṁ dānaṁ datvā kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapanno devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sahabyataṁ.

Còn con, vì đã bố thí không tự tay mình làm, vì đã bố thí không có suy tư, vì đã bố thí các đồ phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Ðại Thiên vương, trong cung điện trống không của Serisaka.
Ahaṁ pana, bhante, asakkaccaṁ dānaṁ datvā asahatthā dānaṁ datvā acittīkataṁ dānaṁ datvā apaviddhaṁ dānaṁ datvā kāyassa bhedā paraṁ maraṇā cātumahārājikānaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapanno suññaṁ serīsakaṁ vimānaṁ.
Do vậy, bạch Tôn giả Gavampati, hãy đi đến thế giới loài Người và nói như sau:
Tena hi, bhante gavampati, manussalokaṁ gantvā evamārocehi:
“Hãy bố thí một cách hoàn bị, hãy bố thí với tự tay mình làm, hãy bố thí một cách có suy tư, hãy bố thí với đồ không phế thải.
‘sakkaccaṁ dānaṁ detha, sahatthā dānaṁ detha, cittīkataṁ dānaṁ detha, anapaviddhaṁ dānaṁ detha.

Tôn chủ Pāyāsi, vì bố thí không hoàn bị, vì bố thí không tự tay mình làm, vì bố thí không có suy tư, vì bố thí các đồ phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Ðại Thiên vương trong cung điện trống không của Serisaka.
Pāyāsi rājañño asakkaccaṁ dānaṁ datvā asahatthā dānaṁ datvā acittīkataṁ dānaṁ datvā apaviddhaṁ dānaṁ datvā kāyassa bhedā paraṁ maraṇā cātumahārājikānaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapanno suññaṁ serīsakaṁ vimānaṁ.

Còn thanh niên Uttara, bị bỏ qua trong cuộc bố thí này, vì đã bố thí một cách hoàn bị, vì đã bố thí tự tay mình làm, vì bố thí một cách có suy tư, vì bố thí các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên”.
Yo pana tassa dāne vāvaṭo ahosi uttaro nāma māṇavo, so sakkaccaṁ dānaṁ datvā sahatthā dānaṁ datvā cittīkataṁ dānaṁ datvā anapaviddhaṁ dānaṁ datvā kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapanno devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sahabyatan’”ti.

Rồi Tôn giả Gavampati đi vào trong thế giới loài Người và nói như sau:
Atha kho āyasmā gavampati manussalokaṁ āgantvā evamārocesi:

“Hãy bố thí một cách hoàn bị. Hãy bố thí với tự tay mình làm. Hãy bố thí một cách có suy tư. Hãy bố thí các đồ không phế thải.
“sakkaccaṁ dānaṁ detha, sahatthā dānaṁ detha, cittīkataṁ dānaṁ detha, anapaviddhaṁ dānaṁ detha.

Tôn chủ Pāyāsi, vì bố thí không hoàn bị, vì bố thí không tự tay mình làm, vì bố thí không có suy tư, vì bố thí đồ phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh nhập chúng với Bốn Ðại Thiên vương, trong cung điện trống không của Serisaka.
Pāyāsi rājañño asakkaccaṁ dānaṁ datvā asahatthā dānaṁ datvā acittīkataṁ dānaṁ datvā apaviddhaṁ dānaṁ datvā kāyassa bhedā paraṁ maraṇā cātumahārājikānaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapanno suññaṁ serīsakaṁ vimānaṁ.

Còn thanh niên Uttara, bị bỏ qua trong một cuộc bố thí này, vì đã bố thí một cách có hoàn bị, vì đã bố thí với tự tay mình làm, vì đã bố thí một cách suy tư, vì đã bố thí với các đồ không phế thải, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên”.
Yo pana tassa dāne vāvaṭo ahosi uttaro nāma māṇavo, so sakkaccaṁ dānaṁ datvā sahatthā dānaṁ datvā cittīkataṁ dānaṁ datvā anapaviddhaṁ dānaṁ datvā kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapanno devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sahabyatan”ti.

Dứt bài kinh Pāyāsi.
Pāyāsisuttaṁ niṭṭhitaṁ dasamaṁ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt