Sáng/Tối

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 91

Trung Bộ 91
Majjhima Nikāya 91

Kinh Brahmāyu
Brahmāyusutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—

Một thời Thế Tôn du hành ở Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị.
ekaṁ samayaṁ bhagavā videhesu cārikaṁ carati mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ pañcamattehi bhikkhusatehi.

Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Brahmāyu trú tại Mithilā (Di-tát-la) già yếu, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã gần mãn cuộc đời, tuổi đã đến một trăm hai mươi, một vị đọc tụng Thánh điển, chấp trì chú thuật, tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Ðại nhân tướng.
Tena kho pana samayena brahmāyu brāhmaṇo mithilāyaṁ paṭivasati jiṇṇo vuḍḍho mahallako addhagato vayoanuppatto, vīsavassasatiko jātiyā, tiṇṇaṁ vedānaṁ pāragū sanighaṇḍukeṭubhānaṁ sākkharappabhedānaṁ itihāsapañcamānaṁ, padako, veyyākaraṇo, lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anavayo.

Bà-la-môn Brahmāyu có nghe:
Assosi kho brahmāyu brāhmaṇo:

“Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Sakya (Thích-ca) đang du hành ở Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị”.
“samaṇo khalu bho, gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito videhesu cārikaṁ carati mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ pañcamattehi bhikkhusatehi.

Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama:
Taṁ kho pana bhavantaṁ gotamaṁ evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:

‘Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.’
‘itipi so bhagavā arahaṁ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṁ buddho bhagavā’ti.

Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và loài Người.
So imaṁ lokaṁ sadevakaṁ samārakaṁ sabrahmakaṁ sassamaṇabrāhmaṇiṁ pajaṁ sadevamanussaṁ sayaṁ abhiññā sacchikatvā pavedeti.

Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ, Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, trong sạch.
So dhammaṁ deseti ādikalyāṇaṁ majjhekalyāṇaṁ pariyosānakalyāṇaṁ sātthaṁ sabyañjanaṁ, kevalaparipuṇṇaṁ parisuddhaṁ brahmacariyaṁ pakāseti.

Tốt đẹp thay sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy”.
Sādhu kho pana tathārūpānaṁ arahataṁ dassanaṁ hotī”ti.

Lúc bấy giờ đệ tử của Bà-la-môn Brahmāyu là thanh niên Uttara, một vị đọc tụng Thánh điển, chấp trì chú thuật, tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Ðại nhân tướng.
Tena kho pana samayena brahmāyussa brāhmaṇassa uttaro nāma māṇavo antevāsī hoti tiṇṇaṁ vedānaṁ pāragū sanighaṇḍukeṭubhānaṁ sākkharappabhedānaṁ itihāsapañcamānaṁ, padako, veyyākaraṇo, lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anavayo.

Rồi Bà-la-môn Brahmāyu bảo thanh niên Uttara:
Atha kho brahmāyu brāhmaṇo uttaraṁ māṇavaṁ āmantesi:

Này Uttara thân mến, Sa-môn Gotama này là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Sakya (Thích-ca) đang du hành ở Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị” … Tốt đẹp thay được yết kiến một vị A-la-hán như vậy.
“ayaṁ, tāta uttara, samaṇo gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito videhesu cārikaṁ carati mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ pañcamattehi bhikkhusatehi. Taṁ kho pana bhavantaṁ gotamaṁ evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato: ‘itipi so bhagavā arahaṁ sammāsambuddho …pe… sādhu kho pana tathārūpānaṁ arahataṁ dassanaṁ hotī’ti.

Uttara thân mến, hãy đi đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy tìm hiểu Sa-môn Gotama, có phải là Tôn giả Gotama như tiếng đã đồn, hay là không phải, hay là Tôn giả Gotama như thế này, hay là không phải như thế này.
Ehi tvaṁ, tāta uttara, yena samaṇo gotamo tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā samaṇaṁ gotamaṁ jānāhi, yadi vā taṁ bhavantaṁ gotamaṁ tathā santaṁyeva saddo abbhuggato, yadi vā no tathā; yadi vā so bhavaṁ gotamo tādiso, yadi vā na tādiso.

Chính nhờ Ông mà chúng ta sẽ biết về Tôn giả Gotama.”
Tathā mayaṁ taṁ bhavantaṁ gotamaṁ vedissāmā”ti.

“Thưa Tôn giả, làm sao tôi biết Tôn giả Gotama có phải là Tôn giả Gotama như tiếng đã đồn, hay là không phải, hay là Tôn giả Gotama như thế này, hay là không phải như thế này?”
“Yathā kathaṁ panāhaṁ, bho, taṁ bhavantaṁ gotamaṁ jānissāmi yadi vā taṁ bhavantaṁ gotamaṁ tathā santaṁyeva saddo abbhuggato, yadi vā no tathā; yadi vā so bhavaṁ gotamo tādiso, yadi vā na tādiso”ti.

“Này Uttara thân mến, theo Thánh điển của chúng ta được truyền lại về ba mươi hai Ðại nhân tướng, những ai có ba mươi hai tướng ấy sẽ chọn một trong hai con đường, không có con đường nào khác:
“Āgatāni kho, tāta uttara, amhākaṁ mantesu dvattiṁsamahāpurisalakkhaṇāni, yehi samannāgatassa mahāpurisassa dveyeva gatiyo bhavanti anaññā.

nếu là tại gia, sẽ thành vị Chuyển luân Thánh vương chinh phục mọi quốc độ, đầy đủ bảy món báu.
Sace agāraṁ ajjhāvasati, rājā hoti cakkavattī dhammiko dhammarājā cāturanto vijitāvī janapadatthāvariyappatto sattaratanasamannāgato.

Bảy món báu này là:
Tassimāni satta ratanāni bhavanti, seyyathidaṁ—

xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu, ngọc nữ báu, cư sĩ báu và thứ bảy là tướng quân báu.
cakkaratanaṁ, hatthiratanaṁ, assaratanaṁ, maṇiratanaṁ, itthiratanaṁ, gahapatiratanaṁ, pariṇāyakaratanameva sattamaṁ.

Và vị này có hơn một ngàn con trai, là những vị anh hùng, oai phong lẫm liệt, chiến thắng ngoại quân.
Parosahassaṁ kho panassa puttā bhavanti sūrā vīraṅgarūpā parasenappamaddanā.

Vị này sống thống lãnh quả đất cùng tận cho đến đại dương, và trị vì với Chánh pháp, không dùng gậy, không dùng đao.
So imaṁ pathaviṁ sāgarapariyantaṁ adaṇḍena asatthena dhammena abhivijiya ajjhāvasati.

Nếu vị này xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị này sẽ chứng quả A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác quét sạch mê lầm ở đời.
Sace kho pana agārasmā anagāriyaṁ pabbajati, arahaṁ hoti sammāsambuddho loke vivaṭṭacchado.

Này Uttara thân mến, ta đã cho con chú thuật, con đã nhận những chú thuật ấy.”
Ahaṁ kho pana, tāta uttara, mantānaṁ dātā; tvaṁ mantānaṁ paṭiggahetā”ti.

“Thưa vâng, Tôn giả,” Thanh niên Uttara vâng đáp Bà-la-môn Brahmāyu, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Bà-la-môn Brahmāyu, giữ thân hướng về phía hữu, rồi ra đi du hành đến Thế Tôn ở Videha, tuần tự du hành đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên.
“Evaṁ, bho”ti kho uttaro māṇavo brahmāyussa brāhmaṇassa paṭissutvā uṭṭhāyāsanā brahmāyuṁ brāhmaṇaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā videhesu yena bhagavā tena cārikaṁ pakkāmi. Anupubbena cārikaṁ caramāno yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṁ sammodi. Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdi.

Ngồi xuống một bên, thanh niên Uttara tìm xem ba mươi hai Ðại nhân tướng trên thân Thế Tôn.
Ekamantaṁ nisinno kho uttaro māṇavo bhagavato kāye dvattiṁsamahāpurisalakkhaṇāni samannesi.

Thanh niên Uttara thấy trên thân Thế Tôn phần lớn ba mươi hai Ðại nhân tướng, trừ hai tướng.
Addasā kho uttaro māṇavo bhagavato kāye dvattiṁsamahāpurisalakkhaṇāni, yebhuyyena thapetvā dve.

Ðối với hai Ðại nhân tướng ấy, nghi hoặc sanh, do dự sanh, chưa được thỏa mãn, chưa được hài lòng, tức là:
Dvīsu mahāpurisalakkhaṇesu kaṅkhati vicikicchati nādhimuccati na sampasīdati—

tướng mã âm tàng và tướng lưỡi rộng dài.
kosohite ca vatthaguyhe pahūtajivhatāya ca.

Rồi Thế Tôn nghĩ rằng:
Atha kho bhagavato etadahosi:

“Thanh niên Uttara này thấy ở nơi Ta phần lớn ba mươi hai Ðại nhân tướng, trừ hai tướng.
“passati kho me ayaṁ uttaro māṇavo dvattiṁsamahāpurisalakkhaṇāni, yebhuyyena thapetvā dve.

Ðối với hai Ðại nhân tướng ấy, nghi hoặc sanh, do dự sanh, chưa được thỏa mãn, chưa được hài lòng, tức là:
Dvīsu mahāpurisalakkhaṇesu kaṅkhati vicikicchati nādhimuccati na sampasīdati—

tướng mã âm tàng và tướng lưỡi rộng dài”.
kosohite ca vatthaguyhe pahūtajivhatāya cā”ti.

Thế Tôn liền dùng thần thông khiến thanh niên Uttara thấy được tướng mã âm tàng của Thế Tôn.
Atha kho bhagavā tathārūpaṁ iddhābhisaṅkhāraṁ abhisaṅkhāsi yathā addasa uttaro māṇavo bhagavato kosohitaṁ vatthaguyhaṁ.

Và Thế Tôn le lưỡi, rờ đến, liếm đến hai lỗ tai; rờ đến, liếm đến hai lỗ mũi, và dùng lưỡi che khắp cả vùng trán.
Atha kho bhagavā jivhaṁ ninnāmetvā ubhopi kaṇṇasotāni anumasi paṭimasi; ubhopi nāsikasotāni anumasi paṭimasi; kevalampi nalāṭamaṇḍalaṁ jivhāya chādesi.

Rồi thanh niên Uttara suy nghĩ:
Atha kho uttarassa māṇavassa etadahosi:

“Sa-môn Gotama có đầy đủ ba mươi hai Ðại nhân tướng.
“samannāgato kho samaṇo gotamo dvattiṁsamahāpurisalakkhaṇehi.

Vậy ta hãy theo sát Sa-môn Gotama để dò xem các uy nghi (của Ngài)”.
Yannūnāhaṁ samaṇaṁ gotamaṁ anubandheyyaṁ, iriyāpathamassa passeyyan”ti.

Rồi thanh niên Uttara trong bảy tháng theo sát Thế Tôn như bóng không bao giờ rời hình.
Atha kho uttaro māṇavo sattamāsāni bhagavantaṁ anubandhi chāyāva anapāyinī.

Rồi thanh niên Uttara, sau bảy tháng, khởi hành đi đến Mithilā ở Videha.
Atha kho uttaro māṇavo sattannaṁ māsānaṁ accayena videhesu yena mithilā tena cārikaṁ pakkāmi.

Tuần tự du hành đi đến Mithilā, rồi đi đến Bà-la-môn Brahmāyu, sau khi đến, đảnh lễ Bà-la-môn Brahmāyu rồi ngồi xuống một bên. Bà-la-môn Brahmāyu nói với thanh niên Uttara đang ngồi một bên:
Anupubbena cārikaṁ caramāno yena mithilā yena brahmāyu brāhmaṇo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā brahmāyuṁ brāhmaṇaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinnaṁ kho uttaraṁ māṇavaṁ brahmāyu brāhmaṇo etadavoca:

“Này Uttara thân mến, có phải tiếng đồn về Tôn giả Gotama là đúng như vậy, không phải khác, có phải Tôn giả Gotama là như vậy, không phải khác ?”
“kacci, tāta uttara, taṁ bhavantaṁ gotamaṁ tathā santaṁyeva saddo abbhuggato, no aññathā? Kacci pana so bhavaṁ gotamo tādiso, no aññādiso”ti?

“Tiếng đồn về Tôn giả Gotama là đúng như vậy, không phải khác, Tôn giả Gotama là như vậy, không phải khác.
“Tathā santaṁyeva, bho, taṁ bhavantaṁ gotamaṁ saddo abbhuggato, no aññathā; tādisova so bhavaṁ gotamo, no aññādiso.

Và Tôn giả Gotama ấy có đầy đủ ba mươi hai Ðại nhân tướng.
Samannāgato ca so bhavaṁ gotamo dvattiṁsamahāpurisalakkhaṇehi.

Tôn giả Gotama có lòng bàn chân bằng phẳng. Ðây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn giả Gotama.
Suppatiṭṭhitapādo kho pana bho bhavaṁ gotamo; idampi tassa bhoto gotamassa mahāpurisassa mahāpurisalakkhaṇaṁ bhavati.

Dưới hai bàn chân Tôn giả Gotama, có hiện ra hình bánh xe, với ngàn tăm xe, với trục xe vành xe, với các bộ phận hoàn toàn đầy đủ.
Heṭṭhā kho pana tassa bhoto gotamassa pādatalesu cakkāni jātāni sahassārāni sanemikāni sanābhikāni sabbākāraparipūrāni …

Tôn giả Gotama có gót chân thon dài.
Āyatapaṇhi kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có ngón tay, ngón chân dài.
Dīghaṅguli kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có tay chân mềm mại.
Mudutalunahatthapādo kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama tay chân có màn da lưới.
Jālahatthapādo kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có mắt cá tròn như con sò.
Ussaṅkhapādo kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có ống chân to như con dê rừng.
Eṇijaṅgho kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama đứng thẳng, không cong lưng xuống có thể rờ đầu gối với hai bàn tay.
Ṭhitako kho pana so bhavaṁ gotamo anonamanto ubhohi pāṇitalehi jaṇṇukāni parimasati parimajjati …

Tôn giả Gotama có tướng mã âm tàng.
Kosohitavatthaguyho kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có màu da như đồng, màu sắc như vàng.
Suvaṇṇavaṇṇo kho pana so bhavaṁ gotamo kañcanasannibhattaco …

Tôn giả Gotama có da trơn mướt khiến bụi không có thể bám dính vào.
Sukhumacchavi kho pana so bhavaṁ gotamo. Sukhumattā chaviyā rajojallaṁ kāye na upalimpati …

Tôn giả Gotama có lông da mọc từng lỗ lông một, mỗi lỗ chân lông có một lông.
Ekekalomo kho pana so bhavaṁ gotamo; ekekāni lomāni lomakūpesu jātāni …

Tôn giả Gotama có lông mọc xoáy tròn thẳng lên, mỗi sợi lông đều vậy, màu xanh đậm như thuốc bôi mắt, xoáy lên từng xoáy tròn nhỏ, và xoáy về hướng mặt.
Uddhaggalomo kho pana so bhavaṁ gotamo; uddhaggāni lomāni jātāni nīlāni añjanavaṇṇāni kuṇḍalāvaṭṭāni dakkhiṇāvaṭṭakajātāni …

Tôn giả Gotama có thân hình cao thẳng.
Brahmujugatto kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có bảy chỗ tròn đầy.
Sattussado kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có nửa thân trước như thân con sư tử.
Sīhapubbaddhakāyo kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama không có lõm khuyết xuống giữa hai vai.
Citantaraṁso kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có thân thể cân đối như cây bàng. Bề cao thân ngang bằng bề dài hai tay sải rộng, bề dài hai tay sải rộng ngang bằng bề cao của thân.
Nigrodhaparimaṇḍalo kho pana so bhavaṁ gotamo; yāvatakvassa kāyo tāvatakvassa byāmo, yāvatakvassa byāmo tāvatakvassa kāyo …

Tôn giả Gotama có bán thân trên vuông tròn.
Samavaṭṭakkhandho kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có vị giác hết sức sắc bén.
Rasaggasaggī kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có quai hàm như con sư tử.
Sīhahanu kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có bốn mươi răng.
Cattālīsadanto kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có răng đều đặn.
Samadanto kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có răng không khuyết hở.
Aviraḷadanto kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có răng cửa trơn láng.
Susukkadāṭho kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có tướng lưỡi rộng dài.
Pahūtajivho kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có giọng nói tuyệt diệu như tiếng chim ca-lăng- tần-già (karavika).
Brahmassaro kho pana so bhavaṁ gotamo karavikabhāṇī …

Tôn giả Gotama có hai mắt màu xanh đậm.
Abhinīlanetto kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama có lông mi con bò cái.
Gopakhumo kho pana so bhavaṁ gotamo …

Tôn giả Gotama, giữa hai lông mày, có sợi lông trắng mọc lên mịn màng như bông nhẹ.
Uṇṇā kho panassa bhoto gotamassa bhamukantare jātā odātā mudutūlasannibhā …

Tôn giả Gotama có nhục kế trên đầu. Ðây là Ðại nhân tướng của Ðại nhân Tôn giả Gotama.
Uṇhīsasīso kho pana so bhavaṁ gotamo; idampi tassa bhoto gotamassa mahāpurisassa mahāpurisalakkhaṇaṁ bhavati.

Ðây là Ðại nhân tướng mà Ðại nhân Tôn giả Gotama có.
Imehi kho, bho, so bhavaṁ gotamo dvattiṁsamahāpurisalakkhaṇehi samannāgato.

Khi Tôn giả Gotama đi, Ngài bước chân mặt trước,
Gacchanto kho pana so bhavaṁ gotamo dakkhiṇeneva pādena paṭhamaṁ pakkamati.

không đặt chân xuống quá xa, không rút chân lên quá gần,
So nātidūre pādaṁ uddharati, nāccāsanne pādaṁ nikkhipati;

không bước quá mau, không bước quá chậm,
so nātisīghaṁ gacchati, nātisaṇikaṁ gacchati;

khi đi đầu gối không va chạm đầu gối, khi đi mắt cá không va chạm mắt cá;
na ca adduvena adduvaṁ saṅghaṭṭento gacchati, na ca gopphakena gopphakaṁ saṅghaṭṭento gacchati.

Ngài đi không co bắp vế lên, không duỗi bắp vế xuống, không đưa bắp vế vào trong, không đưa bắp vế ra ngoài.
So gacchanto na satthiṁ unnāmeti, na satthiṁ onāmeti; na satthiṁ sannāmeti, na satthiṁ vināmeti.

Khi đi Tôn giả Gotama chỉ di động phần thân ở dưới, và không dùng toàn thân lực.
Gacchato kho pana tassa bhoto gotamassa adharakāyova iñjati, na ca kāyabalena gacchati.

Khi ngó quanh, Tôn giả Gotama ngó quanh với toàn thân.
Apalokento kho pana so bhavaṁ gotamo sabbakāyeneva apaloketi;

Khi đi không có ngưỡng mặt lên, không cúi mặt xuống,
so na uddhaṁ ulloketi, na adho oloketi;

không có ngó quanh, và chỉ ngó xuống khoảng một tầm; Xa hơn, tri kiến được mở rộng.
na ca vipekkhamāno gacchati, yugamattañca pekkhati; tato cassa uttari anāvaṭaṁ ñāṇadassanaṁ bhavati.

Khi đi vào nhà, (Tôn giả Gotama) không ngửa thân về phía sau, không cúi thân về phía trước, không đưa thân về phía trong, không đưa thân về phía ngoài;
So antaragharaṁ pavisanto na kāyaṁ unnāmeti, na kāyaṁ onāmeti; na kāyaṁ sannāmeti, na kāyaṁ vināmeti.

vị ấy quay lưng không quá xa ghế ngồi, không quá gần ghế ngồi; ngồi trên ghế, không nắm chặt thành ghế, không gieo thân ngồi xuống ghế.
So nātidūre nāccāsanne āsanassa parivattati, na ca pāṇinā ālambitvā āsane nisīdati, na ca āsanasmiṁ kāyaṁ pakkhipati.

Khi ngồi trong nhà. Ngài không rung tay, không rung chân;
So antaraghare nisinno samāno na hatthakukkuccaṁ āpajjati, na pādakukkuccaṁ āpajjati;

không ngồi tréo đầu gối với nhau, tréo mắt cá với nhau;
na adduvena adduvaṁ āropetvā nisīdati; na ca gopphakena gopphakaṁ āropetvā nisīdati;

không ngồi tay chống cằm.
na ca pāṇinā hanukaṁ upadahitvā nisīdati.

Khi ngồi trong nhà, không có sợ hãi, không có run rẩy, không có dao động, không có hoảng hốt.
So antaraghare nisinno samāno na chambhati na kampati na vedhati na paritassati. So achambhī akampī avedhī aparitassī vigatalomahaṁso.

Tôn giả Gotama ngồi như Thiền tịnh độc cư.
Vivekavatto ca so bhavaṁ gotamo antaraghare nisinno hoti.

Khi nhận nước để rửa bát, không chúc bình bát lên, không chúc bình bát xuống, không xoay bình bát vào phía trong, không xoay bình bát ra phía ngoài.
So pattodakaṁ paṭiggaṇhanto na pattaṁ unnāmeti, na pattaṁ onāmeti; na pattaṁ sannāmeti, na pattaṁ vināmeti.

nhận nước không quá ít, không quá nhiều.
So pattodakaṁ paṭiggaṇhāti nātithokaṁ nātibahuṁ.

Ngài rửa bát, không sanh tiếng động, rửa bát không xoay tròn bình bát, không đặt bình bát xuống đất rồi rửa tay, khi hai tay rửa xong, bát cũng rửa xong, khi bát rửa xong, tay cũng rửa xong.
So na khulukhulukārakaṁ pattaṁ dhovati, na samparivattakaṁ pattaṁ dhovati, na pattaṁ bhūmiyaṁ nikkhipitvā hatthe dhovati; hatthesu dhotesu patto dhoto hoti, patte dhote hatthā dhotā honti.

Ngài đổ nước bình bát không quá xa, không quá gần, và không vẩy nước cùng khắp.
So pattodakaṁ chaḍḍeti nātidūre nāccāsanne, na ca vicchaḍḍayamāno.

Khi Ngài nhận cơm, không chúc bình bát lên, không chúc bình bát xuống, không xoay bình bát vào phía trong, không xoay bình bát ra phía ngoài.
So odanaṁ paṭiggaṇhanto na pattaṁ unnāmeti, na pattaṁ onāmeti; na pattaṁ sannāmeti, na pattaṁ vināmeti.

nhận cơm không quá ít, không quá nhiều.
So odanaṁ paṭiggaṇhāti nātithokaṁ nātibahuṁ.

Ngài ăn đồ ăn vừa phải (với cơm), không có bỏ miếng cơm, chỉ lựa miếng thức ăn.
Byañjanaṁ kho pana bhavaṁ gotamo byañjanamattāya āhāreti, na ca byañjanena ālopaṁ atināmeti.

Tôn giả Gotama đưa miếng cơm quanh miệng hai ba lần rồi mới nuốt;
Dvattikkhattuṁ kho bhavaṁ gotamo mukhe ālopaṁ samparivattetvā ajjhoharati;

không hột cơm nào được vào trong miệng không bị nghiến nát, và không một hột cơm nào còn lại trong miệng;
na cassa kāci odanamiñjā asambhinnā kāyaṁ pavisati, na cassa kāci odanamiñjā mukhe avasiṭṭhā hoti;

trước khi ăn miếng cơm khác.
athāparaṁ ālopaṁ upanāmeti.

Tôn giả Gotama thưởng thức vị ăn khi ăn đồ ăn, không thưởng thức lòng tham vị.
Rasapaṭisaṁvedī kho pana so bhavaṁ gotamo āhāraṁ āhāreti, no ca rasarāgapaṭisaṁvedī.

Tôn giả Gotama ăn đồ ăn có đầy đủ tám đức tánh:
Aṭṭhaṅgasamannāgataṁ kho pana so bhavaṁ gotamo āhāraṁ āhāreti—

không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng, để (thân này) khỏi bị thương hại, để hỗ trợ Phạm hạnh, nghĩ rằng:
neva davāya, na madāya na maṇḍanāya na vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya, vihiṁsūparatiyā brahmacariyānuggahāya:

‘Như vậy, Ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới, và Ta sẽ không lỗi lầm, sống được an ổn’.
‘iti purāṇañca vedanaṁ paṭihaṅkhāmi navañca vedanaṁ na uppādessāmi, yātrā ca me bhavissati anavajjatā ca phāsuvihāro cā’ti.

Ngài ăn xong lấy nước rửa bát, không chúc bình bát lên, không chúc bình bát xuống, không xoay bình bát vào phía trong, không xoay bình bát ra phía ngoài.
So bhuttāvī pattodakaṁ paṭiggaṇhanto na pattaṁ unnāmeti, na pattaṁ onāmeti; na pattaṁ sannāmeti, na pattaṁ vināmeti.

nhận nước không quá ít, không quá nhiều.
So pattodakaṁ paṭiggaṇhāti nātithokaṁ nātibahuṁ.

Ngài rửa bát không sanh tiếng động, rửa bát không xoay tròn bình bát, không có đặt bình bát xuống đất rồi rửa tay, khi hai tay rửa xong, bình bát cũng rửa xong, khi bình bát rửa xong, hai tay cũng rửa xong.
So na khulukhulukārakaṁ pattaṁ dhovati, na samparivattakaṁ pattaṁ dhovati, na pattaṁ bhūmiyaṁ nikkhipitvā hatthe dhovati; hatthesu dhotesu patto dhoto hoti, patte dhote hatthā dhotā honti.

Ngài đổ nước bình bát, không quá xa, không quá gần, không vẩy nước cùng khắp.
So pattodakaṁ chaḍḍeti nātidūre nāccāsanne, na ca vicchaḍḍayamāno.

Khi ăn xong, Ngài đặt bình bát xuống đất, không quá xa, không quá gần, không phải không nghĩ đến bình bát, cũng không quá lo cho bình bát.
So bhuttāvī na pattaṁ bhūmiyaṁ nikkhipati nātidūre nāccāsanne, na ca anatthiko pattena hoti, na ca ativelānurakkhī pattasmiṁ.

Khi ăn xong, Ngài ngồi im lặng một lát nhưng không để quá thì giờ nói lời tùy hỷ (công đức).
So bhuttāvī muhuttaṁ tuṇhī nisīdati, na ca anumodanassa kālamatināmeti.

Ngài nói lời tùy hỷ (công đức), không chỉ trích bữa ăn ấy, không mong bữa ăn khác;
So bhuttāvī anumodati, na taṁ bhattaṁ garahati, na aññaṁ bhattaṁ paṭikaṅkhati;

trái lại, Ngài với pháp thoại khai thị hội chúng ấy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ.
aññadatthu dhammiyā kathāya taṁ parisaṁ sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṁseti.

Ngài sau khi với pháp thoại khai thị hội chúng ấy, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
So taṁ parisaṁ dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṁsetvā uṭṭhāyāsanā pakkamati.

Ngài đi không quá mau, không quá chậm. Ngài đi không phải (như muốn) lánh xa hội chúng ấy.
So nātisīghaṁ gacchati, nātisaṇikaṁ gacchati, na ca muccitukāmo gacchati;

Tôn giả Gotama đắp y không kéo lên quá cao trên thân, không kéo xuống quá thấp, không dính sát vào thân, không có lơi ra khỏi thân;
na ca tassa bhoto gotamassa kāye cīvaraṁ accukkaṭṭhaṁ hoti na ca accokkaṭṭhaṁ, na ca kāyasmiṁ allīnaṁ na ca kāyasmā apakaṭṭhaṁ;

gió thổi không thoát y khỏi thân Tôn giả Gotama;
na ca tassa bhoto gotamassa kāyamhā vāto cīvaraṁ apavahati;

bụi nhớp không dính trên thân Tôn giả Gotama.
na ca tassa bhoto gotamassa kāye rajojallaṁ upalimpati.

Ði đến tu viện, Ngài ngồi trên ghế đã soạn sẵn, sau khi ngồi liền rửa chân,
So ārāmagato nisīdati paññatte āsane. Nisajja pāde pakkhāleti;

và Tôn giả Gotama không sống chú tâm vào công việc làm đẹp hai chân.
na ca so bhavaṁ gotamo pādamaṇḍanānuyogamanuyutto viharati.

Ngài ngồi kiết già, lưng thẳng, và đặt niệm trước mặt.
So pāde pakkhāletvā nisīdati pallaṅkaṁ ābhujitvā ujuṁ kāyaṁ paṇidhāya parimukhaṁ satiṁ upaṭṭhapetvā.

Ngài không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai.
So neva attabyābādhāya ceteti, na parabyābādhāya ceteti, na ubhayabyābādhāya ceteti;

Tôn giả Gotama ngồi, tâm hướng đến lợi mình, lợi người, lợi cả hai, lợi toàn thế giới.
attahitaparahitaubhayahitasabbalokahitameva so bhavaṁ gotamo cintento nisinno hoti.

Ði đến tu viện, Ngài thuyết pháp cho hội chúng, không tán dương hội chúng ấy, không chỉ trích hội chúng ấy;
So ārāmagato parisati dhammaṁ deseti, na taṁ parisaṁ ussādeti, na taṁ parisaṁ apasādeti;

trái lại với pháp thoại khai thị hội chúng ấy, khích lệ làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ.
aññadatthu dhammiyā kathāya taṁ parisaṁ sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṁseti.

Tiếng nói thoát ra từ miệng Tôn giả Gotama có tám đức tánh:
Aṭṭhaṅgasamannāgato kho panassa bhoto gotamassa mukhato ghoso niccharati—

lưu loát, dễ hiểu, dịu ngọt, nghe rõ ràng, sung mãn, phân minh, thâm sâu và vang động.
vissaṭṭho ca, viññeyyo ca, mañju ca, savanīyo ca, bindu ca, avisārī ca, gambhīro ca, ninnādī ca.

Khi Tôn giả Gotama giải thích cho hội chúng với tiếng nói của mình, tiếng nói không vượt ra khỏi hội chúng.
Yathāparisaṁ kho pana so bhavaṁ gotamo sarena viññāpeti, na cassa bahiddhā parisāya ghoso niccharati.

Hội chúng sau khi được Tôn giả Gotama khai thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho thích thú, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy, và ra đi vẫn quay nhìn lại, không muốn rời bỏ.
Te tena bhotā gotamena dhammiyā kathāya sandassitā samādapitā samuttejitā sampahaṁsitā uṭṭhāyāsanā pakkamanti avalokayamānāyeva avijahitattā.

Chúng con thấy Tôn giả Gotama đi. Chúng con thấy (Tôn giả) đứng. Chúng con thấy (Tôn giả) ngồi im lặng trong nhà. Chúng con thấy (Tôn giả) ăn trong nhà. Chúng con thấy (Tôn giả) sau khi ăn xong, ngồi im lặng. Chúng con thấy (Tôn giả) sau khi ăn xong, nói lời tùy hỷ (công đức). Chúng con thấy (Tôn giả) đi trở về tu viện. Chúng con thấy (Tôn giả) đi đến tu viện ngồi im lặng. Chúng con thấy (Tôn giả) đi đến tu viện thuyết pháp cho hội chúng.
Addasāma kho mayaṁ, bho, taṁ bhavantaṁ gotamaṁ gacchantaṁ, addasāma ṭhitaṁ, addasāma antaragharaṁ pavisantaṁ, addasāma antaraghare nisinnaṁ tuṇhībhūtaṁ, addasāma antaraghare bhuñjantaṁ, addasāma bhuttāviṁ nisinnaṁ tuṇhībhūtaṁ, addasāma bhuttāviṁ anumodantaṁ, addasāma ārāmaṁ gacchantaṁ, addasāma ārāmagataṁ nisinnaṁ tuṇhībhūtaṁ, addasāma ārāmagataṁ parisati dhammaṁ desentaṁ.

Như vậy, và như vậy là Tôn giả Gotama ấy và lại còn nhiều hơn như vậy nữa.”
Ediso ca ediso ca so bhavaṁ gotamo, tato ca bhiyyo”ti.

Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Brahmāyu từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, chắp tay hướng đến Thế Tôn, và ba lần nói lời cảm hứng sau đây:
Evaṁ vutte, brahmāyu brāhmaṇo uṭṭhāyāsanā ekaṁsaṁ uttarāsaṅgaṁ karitvā yena bhagavā tenañjaliṁ paṇāmetvā tikkhattuṁ udānaṁ udāneti:

“Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác!
“Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.

Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác!
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.

Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác!
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassāti.

Có thể tại một chỗ nào, thời gian nào, chúng tôi sẽ đi đến gặp Tôn giả Gotama ấy. Có lẽ sẽ có một cuộc nói chuyện.”
Appeva nāma mayaṁ kadāci karahaci tena bhotā gotamena samāgaccheyyāma? Appeva nāma siyā kocideva kathāsallāpo”ti.

Rồi Thế Tôn, tuần tự du hành ở Videha và đi đến Mithilā.
Atha kho bhagavā videhesu anupubbena cārikaṁ caramāno yena mithilā tadavasari.

Ở đấy, Thế Tôn trú tại rừng xoài Makhadeva ở Mithilā.
Tatra sudaṁ bhagavā mithilāyaṁ viharati maghadevaambavane.

Các Bà-la-môn, Gia chủ ở Mithilā nghe nói:
Assosuṁ kho mithileyyakā brāhmaṇagahapatikā:

“Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, đang du hành ở Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị đã đến Mithilā và hiện trú ở rừng xoài Makhadeva, tại Mithilā.
“samaṇo khalu, bho, gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito videhesu cārikaṁ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ pañcamattehi bhikkhusatehi Mithilāṁ anuppatto, mithilāyaṁ viharati maghadevaambavane.

Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama:
Taṁ kho pana bhavantaṁ gotamaṁ evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:

‘Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.’
‘itipi so bhagavā arahaṁ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṁ buddho bhagavā’ti.

Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và loài Người.
So imaṁ lokaṁ sadevakaṁ samārakaṁ sabrahmakaṁ sassamaṇabrāhmaṇiṁ pajaṁ sadevamanussaṁ sayaṁ abhiññā sacchikatvā pavedeti.

Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ, Ngài tuyên dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, trong sạch.
So dhammaṁ deseti ādikalyāṇaṁ majjhekalyāṇaṁ pariyosānakalyāṇaṁ sātthaṁ sabyañjanaṁ, kevalaparipuṇṇaṁ parisuddhaṁ brahmacariyaṁ pakāseti.

Tốt đẹp thay sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy”.
Sādhu kho pana tathārūpānaṁ arahataṁ dassanaṁ hotī”ti.

Rồi các Bà-la-môn, Gia chủ ở Mithilā đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến, một số đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số nói lên những lời chào đón hỏi thăm Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên; một số chắp tay hướng vái Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; một số xưng danh họ rồi ngồi xuống một bên; một số im lặng rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho mithileyyakā brāhmaṇagahapatikā yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā appekacce bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu; appekacce bhagavatā saddhiṁ sammodiṁsu, sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdiṁsu; appekacce yena bhagavā tenañjaliṁ paṇāmetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu; appekacce bhagavato santike nāmagottaṁ sāvetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu; appekacce tuṇhībhūtā ekamantaṁ nisīdiṁsu.

Bà-la-môn Brahmāyu nghe như sau: “Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, đã đến Mithilā và trú ở Mithilā tại rừng xoài Makhadeva”.
Assosi kho brahmāyu brāhmaṇo: “samaṇo khalu, bho, gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito Mithilāṁ anuppatto, mithilāyaṁ viharati maghadevaambavane”ti.

Rồi Bà-la-môn Brahmāyu đi đến rừng xoài Makhadeva cùng với một số đông thanh niên Bà-la-môn.
Atha kho brahmāyu brāhmaṇo sambahulehi sāvakehi saddhiṁ yena maghadevaambavanaṁ tenupasaṅkami.

Khi đến không xa rừng xoài bao nhiêu, Bà-la-môn Brahmāyu khởi lên ý nghĩ:
Atha kho brahmāyuno brāhmaṇassa avidūre ambavanassa etadahosi:

“Thật không thích đáng cho ta đến yết kiến Sa-môn Gotama mà không báo trước”.
“na kho metaṁ patirūpaṁ yohaṁ pubbe appaṭisaṁvidito samaṇaṁ gotamaṁ dassanāya upasaṅkameyyan”ti.

Rồi Bà-la-môn Brahmāyu bảo một người thanh niên:
Atha kho brahmāyu brāhmaṇo aññataraṁ māṇavakaṁ āmantesi:

“Này Thanh niên, hãy đi đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy nhân danh ta hỏi thăm Sa-môn Gotama có ít bệnh, ít não, khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú:
“ehi tvaṁ, māṇavaka, yena samaṇo gotamo tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā mama vacanena samaṇaṁ gotamaṁ appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ puccha:

‘Thưa Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Brahmāyu hỏi thăm Tôn giả Gotama có ít bệnh, ít não, khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú.’
‘brahmāyu, bho gotama, brāhmaṇo bhavantaṁ gotamaṁ appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ pucchatī’ti.

và thưa như sau:
Evañca vadehi:

‘Thưa Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Brahmāyu già yếu, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã gần mãn cuộc đời, tuổi đã đến một trăm hai mươi, một vị đọc tụng Thánh điển, chấp trì chú thuật, tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Ðại nhân tướng.
‘brahmāyu, bho gotama, brāhmaṇo jiṇṇo vuḍḍho mahallako addhagato vayoanuppatto, vīsavassasatiko jātiyā, tiṇṇaṁ vedānaṁ pāragū sanighaṇḍukeṭubhānaṁ sākkharappabhedānaṁ itihāsapañcamānaṁ, padako, veyyākaraṇo, lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anavayo.

Thưa Tôn giả, đối với các Bà-la-môn, Gia chủ sống tại Mithilā, Bà-la-môn Brahmāyu được xem là
Yāvatā, bho, brāhmaṇagahapatikā mithilāyaṁ paṭivasanti, brahmāyu tesaṁ brāhmaṇo aggamakkhāyati—

tối thượng về phương diện tài sản,
yadidaṁ bhogehi;

Bà-la-môn Brahmāyu được xem là
brahmāyu tesaṁ brāhmaṇo aggamakkhāyati—

tối thượng về phương diện chú thuật,
yadidaṁ mantehi;

Bà-la-môn Brahmāyu được xem là
brahmāyu tesaṁ brāhmaṇo aggamakkhāyati—

tối thượng về phương diện tuổi tác và danh vọng.
yadidaṁ āyunā ceva yasasā ca.

Vị ấy muốn yết kiến Tôn giả Gotama”.
So bhoto gotamassa dassanakāmo’”ti.

“Thưa vâng, Tôn giả,” thanh niên ấy vâng đáp Bà-la-môn Brahmāyu, đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên những lời chào đón hỏi thăm Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền đứng một bên. Ðứng một bên, thanh niên ấy bạch Thế Tôn:
“Evaṁ, bho”ti kho so māṇavako brahmāyussa brāhmaṇassa paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṁ sammodi. Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhito kho so māṇavako bhagavantaṁ etadavoca:

Thưa Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Brahmāyu hỏi thăm Tôn giả Gotama có ít bệnh, ít não, khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú: “Thưa Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Brahmāyu già yếu … và Ðại nhân tướng.
“brahmāyu, bho gotama, brāhmaṇo bhavantaṁ gotamaṁ appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ pucchati;

evañca vadeti: ‘brahmāyu, bho gotama, brāhmaṇo jiṇṇo vuḍḍho mahallako addhagato vayoanuppatto, vīsavassasatiko jātiyā, tiṇṇaṁ vedānaṁ pāragū sanighaṇḍukeṭubhānaṁ sākkharappabhedānaṁ itihāsapañcamānaṁ, padako, veyyākaraṇo, lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anavayo.

Thưa Tôn giả, đối với các Bà-la-môn, Gia chủ sống ở Mithilā, Bà-la-môn Brahmāyu được xem là tối thượng về phương diện tài sản;
Yāvatā, bho, brāhmaṇagahapatikā mithilāyaṁ paṭivasanti, brahmāyu tesaṁ brāhmaṇo aggamakkhāyati—
yadidaṁ bhogehi;

Bà-la-môn Brahmāyu được xem là tối thượng về phương diện chú thuật;
brahmāyu tesaṁ brāhmaṇo aggamakkhāyati—yadidaṁ mantehi;

Bà-la-môn Brahmāyu được xem là tối thượng về phương diện tuổi tác và danh vọng.
brahmāyu tesaṁ brāhmaṇo aggamakkhāyati—yadidaṁ āyunā ceva yasasā ca.

Vị ấy muốn yết kiến Tôn giả Gotama’”.
So bhoto gotamassa dassanakāmo’”ti.

“Này Thanh niên, nay Bà-la-môn Brahmāyu hãy làm những gì vị ấy nghĩ là hợp thời.”
“Yassadāni, māṇava, brahmāyu brāhmaṇo kālaṁ maññatī”ti.

Rồi vị thanh niên ấy đi đến Bà-la-môn Brahmāyu, sau khi đến, liền thưa với Bà-la-môn Brahmāyu:
Atha kho so māṇavako yena brahmāyu brāhmaṇo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā brahmāyuṁ brāhmaṇaṁ etadavoca:

“Tôn giả đã được Sa-môn Gotama chấp nhận.
“katāvakāso khomhi bhavatā samaṇena gotamena.

Nay Tôn giả hãy làm những gì Tôn giả nghĩ là hợp thời.”
Yassadāni bhavaṁ kālaṁ maññatī”ti.

Rồi Bà-la-môn Brahmāyu đi đến Thế Tôn.
Atha kho brahmāyu brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami.

Hội chúng ấy thấy Bà-la-môn Brahmāyu từ xa đi đến, sau khi thấy liền tránh chỗ hai bên vì vị này được nhiều người biết đến và có danh vọng.
Addasā kho sā parisā brahmāyuṁ brāhmaṇaṁ dūratova āgacchantaṁ. Disvāna oramiya okāsamakāsi yathā taṁ ñātassa yasassino.

Bà-la-môn Brahmāyu nói với hội chúng ấy:
Atha kho brahmāyu brāhmaṇo taṁ parisaṁ etadavoca:

“Thôi vừa rồi, các Tôn giả.
“alaṁ, bho.

hãy ngồi trên chỗ ngồi của mình.
Nisīdatha tumhe sake āsane.

Ở đây, tôi sẽ ngồi gần Sa-môn Gotama.”
Idhāhaṁ samaṇassa gotamassa santike nisīdissāmī”ti.

Rồi Bà-la-môn Brahmāyu đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm Thế Tôn.
Atha kho brahmāyu brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṁ sammodi.

Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdi.

Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Brahmāyu tìm xem ba mươi hai Ðại nhân tướng trên thân Thế Tôn.
Ekamantaṁ nisinno kho brahmāyu brāhmaṇo bhagavato kāye dvattiṁsamahāpurisalakkhaṇāni samannesi.

Bà-la-môn Brahmāyu thấy phần lớn ba mươi hai Ðại nhân tướng trên thân Thế Tôn, trừ hai tướng.
Addasā kho brahmāyu brāhmaṇo bhagavato kāye dvattiṁsamahāpurisalakkhaṇāni, yebhuyyena ṭhapetvā dve.

Đối với hai Ðại nhân tướng ấy, nghi hoặc sanh, do dự sanh, chưa được thỏa mãn, chưa được hài lòng, tức là:
Dvīsu mahāpurisalakkhaṇesu kaṅkhati vicikicchati nādhimuccati na sampasīdati—

tướng mã âm tàng và tướng lưỡi rộng dài.
kosohite ca vatthaguyhe pahūtajivhatāya ca.

Rồi Bà-la-môn Brahmāyu nói với Thế Tôn những bài kệ sau đây:
Atha kho brahmāyu brāhmaṇo bhagavantaṁ gāthāhi ajjhabhāsi:

“Ba mươi hai tướng tốt,
Tôi đã được học qua,
Nhưng còn hai tướng khác,
Tôn giả Go-ta-ma,
Ta chưa thấy nơi người.
“Ye me dvattiṁsāti sutā,
mahāpurisalakkhaṇā;
Duve tesaṁ na passāmi,
bhoto kāyasmiṁ gotama.

Là tướng Mã Âm Tàng,
Bậc Tối Thượng, có không?
Hay là tướng nữ nhân?
Tướng lưỡi ta nghi ngờ.
Kacci kosohitaṁ bhoto,
vatthaguyhaṁ naruttama;
Nārīsamānasavhayā,
kacci jivhā na dassakā.

Chắc lười Ngài to lớn,
Như tôi đã được nghe,
Xin hiển lộ tướng lưỡi,
Hiền sĩ hãy đoạn nghi.
Kacci pahūtajivhosi,
yathā taṁ jāniyāmase;
Ninnāmayetaṁ pahūtaṁ,
kaṅkhaṁ vinaya no ise.

Vì lợi ích hiện tại,
Vì an lạc tương lai,
Xin Ngài hãy cho tôi,
Hỏi điều chi muốn biết.”
Diṭṭhadhammahitatthāya,
samparāyasukhāya ca;
Katāvakāsā pucchāma,
yaṁ kiñci abhipatthitan”ti.

Rồi Thế Tôn suy nghĩ:
Atha kho bhagavato etadahosi:

“Bà-la-môn Brahmāyu này thấy trên thân Ta phần lớn ba mươi hai Ðại nhân tướng, trừ hai tướng, đối với hai Ðại nhân tướng ấy, nghi hoặc sanh, do dự sanh, chưa được thỏa mãn, chưa được hài lòng, tức là:
“passati kho me ayaṁ brahmāyu brāhmaṇo dvattiṁsamahāpurisalakkhaṇāni, yebhuyyena ṭhapetvā dve. Dvīsu mahāpurisalakkhaṇesu kaṅkhati vicikicchati nādhimuccati na sampasīdati—

mã tướng âm tàng và tướng lưỡi rộng dài”.
kosohite ca vatthaguyhe pahūtajivhatāya cā”ti.

Thế Tôn liền dùng thần thông khiến Bà-la-môn Brahmāyu thấy được tướng mã âm tàng của Thế Tôn.
Atha kho bhagavā tathārūpaṁ iddhābhisaṅkhāraṁ abhisaṅkhāsi yathā addasa brahmāyu brāhmaṇo bhagavato kosohitaṁ vatthaguyhaṁ.

Và Thế Tôn le lưỡi, rờ đến, liếm đến hai lỗ tai; rờ đến liếm đến hai lỗ mũi, và dùng lưỡi che khắp cả vùng trán.
Atha kho bhagavā jivhaṁ ninnāmetvā ubhopi kaṇṇasotāni anumasi paṭimasi; ubhopi nāsikasotāni anumasi paṭimasi; kevalampi nalāṭamaṇḍalaṁ jivhāya chādesi.

Rồi Thế Tôn trả lời Bà-la-môn Brahmāyu với bài kệ:
Atha kho bhagavā brahmāyuṁ brāhmaṇaṁ gāthāhi paccabhāsi:

“Ba mươi hai tướng tốt,
Ông đã được học qua,
Hiện hữu trên thân ta,
Chớ nghi, Bà-la-môn.
“Ye te dvattiṁsāti sutā,
mahāpurisalakkhaṇā;
Sabbe te mama kāyasmiṁ,
mā te kaṅkhāhu brāhmaṇa.

Ta biết điều cần biết,
Tu tập điều cần tu,
Từ bỏ điều cần bỏ,
Này hỡi Bà-la-môn,
Ta là một vị Phật.
Abhiññeyyaṁ abhiññātaṁ,
bhāvetabbañca bhāvitaṁ;
Pahātabbaṁ pahīnaṁ me,
tasmā buddhosmi brāhmaṇa.

Vì lợi ích hiện tại,
Vì an lạc tương lai,
Ta cho phép ông hỏi,
Những điều ông muốn biết.”
Diṭṭhadhammahitatthāya,
samparāyasukhāya ca;
Katāvakāso pucchassu,
yaṁ kiñci abhipatthitan”ti.

Rồi Bà-la-môn Brahmāyu suy nghĩ như sau:
Atha kho brahmāyussa brāhmaṇassa etadahosi:

“Nay Sa-môn Gotama đã cho phép ta.
“katāvakāso khomhi samaṇena gotamena.

Vậy ta nên hỏi Sa-môn Gotama về:
Kiṁ nu kho ahaṁ samaṇaṁ gotamaṁ puccheyyaṁ:

‘mục đích hiện tại hay tương lai’”.
‘diṭṭhadhammikaṁ vā atthaṁ samparāyikaṁ vā’”ti.

Rồi Bà-la-môn Brahmāyu suy nghĩ:
Atha kho brahmāyussa brāhmaṇassa etadahosi:

“Ta đã thiện xảo về mục đích hiện tại.
“kusalo kho ahaṁ diṭṭhadhammikānaṁ atthānaṁ.

và các người khác hỏi ta về mục đích hiện tại.
Aññepi maṁ diṭṭhadhammikaṁ atthaṁ pucchanti.

Vậy ta hãy hỏi Sa-môn Gotama về mục đích tương lai.”
Yannūnāhaṁ samaṇaṁ gotamaṁ samparāyikaṁyeva atthaṁ puccheyyan”ti.

Rồi Bà-la-môn Brahmāyu dùng bài kệ thưa Thế Tôn:
Atha kho brahmāyu brāhmaṇo bhagavantaṁ gāthāhi ajjhabhāsi:

“Sao là Bà-la-môn?
Sao là thầy hiểu biết?
Sao làm chủ vệ-đà?
Sao được gọi Hiền Sĩ?
“Kathaṁ kho brāhmaṇo hoti,
kathaṁ bhavati vedagū;
Tevijjo bho kathaṁ hoti,
sotthiyo kinti vuccati.

Sao trở thành Ứng cúng?
Sao là bậc viên mãn?
Sao là bậc Hiền Nhân?
Sao gọi là Đức Phật?
Arahaṁ bho kathaṁ hoti,
kathaṁ bhavati kevalī;
Muni ca bho kathaṁ hoti,
buddho kinti pavuccatī”ti.

Rồi Thế Tôn dùng bài kệ trả lời Bà-la-môn Brahmāyu:
Atha kho bhagavā brahmāyuṁ brāhmaṇaṁ gāthāhi paccabhāsi:

“Ai biết rõ tiền kiếp,
Thấy cõi trời, ác xứ,
Đạt đoạn tận tái sanh,
Bậc Hiền Nhân thắng trí.
“Pubbenivāsaṁ yo vedi,
saggāpāyañca passati;
Atho jātikkhayaṁ patto,
abhiññā vosito muni.

Biết tâm mình thanh tịnh,
Hoàn toàn thoát khỏi Tham,
Đã đọn trừ sanh tử,
Phạm hạnh được viên thành,
Vượt lên tất cả Pháp,
Vị ấy gọi Đức Phật.”
Cittaṁ visuddhaṁ jānāti,
muttaṁ rāgehi sabbaso;
Pahīnajātimaraṇo,
brahmacariyassa kevalī;
Pāragū sabbadhammānaṁ,
buddho tādī pavuccatī”ti.

Khi được nghe vậy, Bà-la-môn Brahmāyu từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, cúi đầu xuống dưới chân Thế Tôn, dùng miệng hôn xung quanh chân Thế Tôn, lấy tay rờ xung quanh và tự xưng danh:
Evaṁ vutte, brahmāyu brāhmaṇo uṭṭhāyāsanā ekaṁsaṁ uttarāsaṅgaṁ karitvā bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavato pādāni mukhena ca paricumbati, pāṇīhi ca parisambāhati, nāmañca sāveti:

“Thưa Tôn giả Gotama, con là Bà-la-môn Brahmāyu.
“brahmāyu ahaṁ, bho gotama, brāhmaṇo;

Thưa Tôn giả Gotama, con là Bà-la-môn Brahmāyu.”
brahmāyu ahaṁ, bho gotama, brāhmaṇo”ti.

Và hội chúng ấy tâm tư trở thành kinh dị, vi diệu:
Atha kho sā parisā acchariyabbhutacittajātā ahosi:

“Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay, đại uy lực, đại thần lực của vị Sa-môn đã khiến cho Bà-la-môn Brahmāyu này, với danh tiếng, danh vọng như vậy, lại hạ mình tối đa như vậy”.
“acchariyaṁ vata bho, abbhutaṁ vata bho. Yatra hi nāmāyaṁ brahmāyu brāhmaṇo ñāto yasassī evarūpaṁ paramanipaccakāraṁ karissatī”ti.

Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn Brahmāyu:
Atha kho bhagavā brahmāyuṁ brāhmaṇaṁ etadavoca:

“Thôi vừa rồi, Bà-la-môn, hãy đứng dậy. Ông hãy ngồi trên ghế của Ông vì tâm của Ông đã hoan hỷ đối với Ta.”
“alaṁ, brāhmaṇa, uṭṭhaha nisīda tvaṁ sake āsane yato te mayi cittaṁ pasannan”ti.

Rồi Bà-la-môn Brahmāyu, sau khi đứng dậy, liền ngồi trên ghế của mình.
Atha kho brahmāyu brāhmaṇo uṭṭhahitvā sake āsane nisīdi.

Rồi Thế Tôn thứ lớp thuyết pháp cho Bà-la-môn Brahmāyu:
Atha kho bhagavā brahmāyussa brāhmaṇassa anupubbiṁ kathaṁ kathesi, seyyathidaṁ—

thuyết về bố thí, thuyết về trì giới, thuyết về các cõi Trời;
dānakathaṁ, sīlakathaṁ, saggakathaṁ;

trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của dục lạc và sự lợi ích của xuất ly.
kāmānaṁ ādīnavaṁ okāraṁ saṅkilesaṁ nekkhamme ānisaṁsaṁ pakāsesi.

Khi Thế Tôn biết tâm của Bà-la-môn Brahmāyu đã sẵn sàng, đã nhu thuận, không còn chướng ngại, được phấn khởi, được tín thành, liền thuyết pháp mà chư Phật đã đề cao, tức là:
Yadā bhagavā aññāsi brahmāyuṁ brāhmaṇaṁ kallacittaṁ muducittaṁ vinīvaraṇacittaṁ udaggacittaṁ pasannacittaṁ, atha yā buddhānaṁ sāmukkaṁsikā dhammadesanā taṁ pakāsesi—

Khổ, Tập, Diệt, Ðạo.
dukkhaṁ, samudayaṁ, nirodhaṁ, maggaṁ.

Cũng như tấm vải thuần bạch, được gột rửa các vết đen, sẽ rất dễ thấm màu nhuộm;
Seyyathāpi nāma suddhaṁ vatthaṁ apagatakāḷakaṁ sammadeva rajanaṁ paṭiggaṇheyya;

cũng vậy, chính tại chỗ ngồi này, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên trong tâm Bà-la-môn Brahmāyu:
evameva brahmāyussa brāhmaṇassa tasmiṁyeva āsane virajaṁ vītamalaṁ dhammacakkhuṁ udapādi:

“Phàm pháp gì được tập khởi lên đều bị tiêu diệt”.
“yaṁ kiñci samudayadhammaṁ sabbaṁ taṁ nirodhadhamman”ti.

Bà-la-môn Brahmāyu thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ tiêu trừ, do dự diệt tận, chứng được tự tin, không y cứ nơi người khác đối với đạo pháp của đức Bổn sư. Bà-la-môn Brahmāyu liền bạch Thế Tôn:
Atha kho brahmāyu brāhmaṇo diṭṭhadhammo pattadhammo viditadhammo pariyogāḷhadhammo tiṇṇavicikiccho vigatakathaṅkatho vesārajjappatto aparappaccayo satthusāsane bhagavantaṁ etadavoca:

“Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
“abhikkantaṁ, bho gotama, abhikkantaṁ, bho gotama.

Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích.
Seyyathāpi, bho gotama, nikkujjitaṁ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṁ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṁ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṁ dhāreyya ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti; evamevaṁ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito.

Con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo.
Esāhaṁ bhavantaṁ gotamaṁ saraṇaṁ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca.

Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng!
Upāsakaṁ maṁ bhavaṁ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṁ saraṇaṁ gataṁ.

Mong Tôn giả Gotama ngày mai nhận lời mời của con đến dùng cơm với chúng Tỷ-kheo!”
Adhivāsetu ca me bhavaṁ gotamo svātanāya bhattaṁ saddhiṁ bhikkhusaṅghenā”ti.

Thế Tôn im lặng nhận lời.
Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.

Rồi Bà-la-môn Brahmāyu khi được biết Thế Tôn đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Atha kho brahmāyu brāhmaṇo bhagavato adhivāsanaṁ viditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā pakkāmi.

Bà-la-môn Brahmāyu sau khi đêm ấy đã mãn, sau khi đã sửa soạn tại trú xá của mình các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm, liền báo thì giờ cho Thế Tôn:
Atha kho brahmāyu brāhmaṇo tassā rattiyā accayena sake nivesane paṇītaṁ khādanīyaṁ bhojanīyaṁ paṭiyādāpetvā bhagavato kālaṁ ārocāpesi:

“Tôn giả Gotama, nay đã đến giờ, cơm đã sẵn sàng”.
“kālo, bho gotama, niṭṭhitaṁ bhattan”ti.

Rồi Thế Tôn buổi sáng đắp y, lấy y bát, đi đến trú xá của Bà-la-môn Brahmāyu, sau khi đến liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn với chúng Tỷ-kheo.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena brahmāyussa brāhmaṇassa nivesanaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi saddhiṁ bhikkhusaṅghena.

Trong vòng bảy ngày, Bà-la-môn Brahmāyu tự tay làm cho chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị dẫn đầu, thỏa mãn bằng những món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm.
Atha kho brahmāyu brāhmaṇo sattāhaṁ buddhappamukhaṁ bhikkhusaṅghaṁ paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappesi sampavāresi.

Rồi Thế Tôn sau bảy ngày liền khởi sự du hành ở Videha.
Atha kho bhagavā tassa sattāhassa accayena videhesu cārikaṁ pakkāmi.

Sau khi Thế Tôn ra đi không bao lâu, Bà-la-môn Brahmāyu mệnh chung.
Atha kho brahmāyu brāhmaṇo acirapakkantassa bhagavato kālamakāsi.

Một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Ekamantaṁ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṁ etadavocuṁ:

“Bà-la-môn Brahmāyu đã mệnh chung.
“brahmāyu, bhante, brāhmaṇo kālaṅkato.

Sanh thú của vị ấy là gì, tương lai tái sanh thế nào?”
Tassa kā gati, ko abhisamparāyo”ti?

“Này các Tỷ-kheo, Bà-la-môn Brahmāyu là bậc hiền triết. Vị ấy theo Pháp đúng với Chánh pháp, không có phiền nhiễu Ta với những kiện cáo về Chánh pháp.
“Paṇḍito, bhikkhave, brahmāyu brāhmaṇo paccapādi dhammassānudhammaṁ, na ca maṁ dhammādhikaraṇaṁ vihesesi.

Này các Tỷ-kheo, Bà-la-môn Brahmāyu sau khi đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, từ chỗ ấy nhập Niết-bàn, không có trở lui đời này nữa.”
Brahmāyu, bhikkhave, brāhmaṇo pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā opapātiko hoti, tattha parinibbāyī, anāvattidhammo tasmā lokā”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṁ abhinandunti.

Brahmāyusuttaṁ niṭṭhitaṁ paṭhamaṁ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt