Sáng/Tối

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 90

Trung Bộ 90
Majjhima Nikāya 90

Kinh Kaṇṇakatthala
Kaṇṇakatthalasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—

Một thời Thế Tôn trú tại Ujuññā, gần vườn Lộc Uyển ở Kaṇṇakatthala.
ekaṁ samayaṁ bhagavā uruññāyaṁ viharati kaṇṇakatthale migadāye.

Lúc bấy giờ vua Pasenadi nước Kosala đi đến Ujuññā có công việc.
Tena kho pana samayena rājā pasenadi kosalo uruññaṁ anuppatto hoti kenacideva karaṇīyena.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala bảo một người:
Atha kho rājā pasenadi kosalo aññataraṁ purisaṁ āmantesi:

“Ðến đây, này Người kia. Hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và hỏi thăm có ít bệnh, ít não, khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú và thưa như sau:
“ehi tvaṁ, ambho purisa, yena bhagavā tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā mama vacanena bhagavato pāde sirasā vandāhi, appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ puccha:

‘Bạch Thế Tôn, vua Pasenadi nước Kosala cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có ít bệnh, ít não, khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú không’;
‘rājā, bhante, pasenadi kosalo bhagavato pāde sirasā vandati, appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ pucchatī’ti;

và thưa như sau:
evañca vadehi:

‘Bạch Thế Tôn, hôm nay vua Pasenadi nước Kosala, sau buổi ăn sáng, sẽ đến yết kiến Thế Tôn‘”.
‘ajja kira, bhante, rājā pasenadi kosalo pacchābhattaṁ bhuttapātarāso bhagavantaṁ dassanāya upasaṅkamissatī’”ti.

“Thưa vâng, tâu Ðại vương,” người ấy vâng đáp vua Pasenadi nước Kosala, đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người ấy bạch Thế Tôn:
“Evaṁ, devā”ti kho so puriso rañño pasenadissa kosalassa paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho so puriso bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, vua Pasenadi nước Kosala cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có ít bệnh, ít não, khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú không;
“rājā, bhante, pasenadi kosalo bhagavato pāde sirasā vandati, appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ pucchati;

và thưa như sau:
evañca vadeti:

‘Bạch Thế Tôn, hôm nay vua Pasenadi nước Kosala, sau buổi ăn sáng, sẽ đến yết kiến Thế Tôn‘”.
‘ajja kira, bhante, rājā pasenadi kosalo pacchābhattaṁ bhuttapātarāso bhagavantaṁ dassanāya upasaṅkamissatī’”ti.

Hai chị em Somā và Sakulā được nghe:
Assosuṁ kho somā ca bhaginī sakulā ca bhaginī:

“Hôm nay vua Pasenadi nước Kosala sau buổi ăn sáng, sẽ đến yết kiến Thế Tôn”.
“ajja kira rājā pasenadi kosalo pacchābhattaṁ bhuttapātarāso bhagavantaṁ dassanāya upasaṅkamissatī”ti.

Rồi hai chị em Somā và Sakulā đi đến vua Pasenadi nước Kosala tại phòng ăn, và thưa như sau:
Atha kho somā ca bhaginī sakulā ca bhaginī rājānaṁ pasenadiṁ kosalaṁ bhattābhihāre upasaṅkamitvā etadavocuṁ:

“Tâu Ðại vương, hãy nhân danh chúng thiếp cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có được ít bệnh, ít não, khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú không và thưa giúp:
“tena hi, mahārāja, amhākampi vacanena bhagavato pāde sirasā vandāhi, appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ puccha:

‘Bạch Thế Tôn, chị em Somā và Sakulā cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có được ít bệnh, ít não, khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú không’”.
‘somā ca, bhante, bhaginī sakulā ca bhaginī bhagavato pāde sirasā vandati, appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ pucchatī’”ti.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala sau buổi ăn sáng đi đến Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Thế Tôn rồi, ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:
Atha kho rājā pasenadi kosalo pacchābhattaṁ bhuttapātarāso yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, hai chị em Somā và Sakulā cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít não, khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú không.”
“somā ca, bhante, bhaginī sakulā ca bhaginī bhagavato pāde sirasā vandati, appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ pucchatī”ti.

“Thưa Ðại vương, vì sao hai chị em Somā và Sakulā lại không có thể nhờ một vị đưa tin khác?”
“Kiṁ pana, mahārāja, somā ca bhaginī sakulā ca bhaginī aññaṁ dūtaṁ nālatthun”ti?

“Bạch Thế Tôn, hai chị em Somā và Sakulā có nghe:
“Assosuṁ kho, bhante, somā ca bhaginī sakulā ca bhaginī:

‘Hôm nay vua Pasenadi nước Kosala sau buổi ăn sáng, sẽ yết kiến Thế Tôn’.
‘ajja kira rājā pasenadi kosalo pacchābhattaṁ bhuttapātarāso bhagavantaṁ dassanāya upasaṅkamissatī’ti.

Rồi hai chị em Somā và Sakulā đi đến con tại phòng ăn và thưa như sau:
Atha kho, bhante, somā ca bhaginī sakulā ca bhaginī maṁ bhattābhihāre upasaṅkamitvā etadavocuṁ:

‘Tâu Ðại vương, hãy nhân danh chúng thiếp cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có được ít bệnh, ít não, khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú không và thưa:
‘tena hi, mahārāja, amhākampi vacanena bhagavato pāde sirasā vandāhi, appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ puccha—

Bạch Thế Tôn, hai chị Somā và Sakulā cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít não, khinh an, có mạnh khỏe, lạc trú không’”.
somā ca bhaginī sakulā ca bhaginī bhagavato pāde sirasā vandati, appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ pucchatī’”ti.

“Thưa Ðại vương, mong rằng hai chị em Somā và Sakulā được hạnh phúc!”
“Sukhiniyo hontu tā, mahārāja, somā ca bhaginī sakulā ca bhaginī”ti.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:
Atha kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, con có nghe như sau, Sa-môn Gotama có nói:
“sutaṁ metaṁ, bhante, samaṇo gotamo evamāha:

‘Không có một Sa-môn hay một Bà-la-môn nào toàn tri, toàn kiến, có thể tự cho là chứng được tri kiến viên mãn; sự tình như vậy không thể xảy ra’.
‘natthi so samaṇo vā brāhmaṇo vā yo sabbaññū sabbadassāvī aparisesaṁ ñāṇadassanaṁ paṭijānissati, netaṁ ṭhānaṁ vijjatī’ti.

Bạch Thế Tôn, những ai nói như sau: ‘Sa-môn Gotama có nói: ‘Không có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào toàn tri, toàn kiến có thể cho là chứng được tri kiến viên mãn; sự tình như vậy không thể xảy ra’, bạch Thế Tôn, có phải những vị ấy nói lời Thế Tôn nói, họ không xuyên tạc Thế Tôn, không đúng như thật; họ giải thích pháp đúng pháp và những ai nói hợp pháp, đúng pháp sẽ không có cơ hội để chỉ trích hay không?”
Ye te, bhante, evamāhaṁsu: ‘samaṇo gotamo evamāha—natthi so samaṇo vā brāhmaṇo vā yo sabbaññū sabbadassāvī aparisesaṁ ñāṇadassanaṁ paṭijānissati, netaṁ ṭhānaṁ vijjatī’ti; kacci te, bhante, bhagavato vuttavādino, na ca bhagavantaṁ abhūtena abbhācikkhanti, dhammassa cānudhammaṁ byākaronti, na ca koci sahadhammiko vādānuvādo gārayhaṁ ṭhānaṁ āgacchatī”ti?

“Thưa Ðại vương, những ai nói như sau: ‘Sa-môn Gotama có nói: Không có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào toàn tri, toàn kiến, có thể cho là chứng được tri kiến viên mãn; sự tình như vậy không thể xảy ra’, những vị nói như vậy không nói đúng lời Ta nói, và họ xuyên tạc Ta một cách hư ngụy, không đúng sự thật”.
“Ye te, mahārāja, evamāhaṁsu: ‘samaṇo gotamo evamāha—natthi so samaṇo vā brāhmaṇo vā yo sabbaññū sabbadassāvī aparisesaṁ ñāṇadassanaṁ paṭijānissati, netaṁ ṭhānaṁ vijjatī’ti; na me te vuttavādino, abbhācikkhanti ca pana maṁ te asatā abhūtenā”ti.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala nói với tướng quân Viḍūḍabha:
Atha kho rājā pasenadi kosalo viṭaṭūbhaṁ senāpatiṁ āmantesi:

“Này Tướng quân, ai đã đem vấn đề này vào trong nội cung?”
“ko nu kho, senāpati, imaṁ kathāvatthuṁ rājantepure abbhudāhāsī”ti?

“Tâu Ðại vương, Bà-la-môn Sañjaya, thuộc dòng họ Ākāsa.”
“Sañjayo, mahārāja, brāhmaṇo ākāsagotto”ti.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala cho gọi một người:
Atha kho rājā pasenadi kosalo aññataraṁ purisaṁ āmantesi:

“Ðến đây, này Người kia, hãy nhân danh ta, bảo với Bà-la-môn Sañjaya thuộc dòng họ Ākāsa:
“ehi tvaṁ, ambho purisa, mama vacanena sañjayaṁ brāhmaṇaṁ ākāsagottaṁ āmantehi:

‘Thưa Tôn giả, vua Pasenadi nước Kosala cho gọi Tôn giả’”.
‘rājā taṁ, bhante, pasenadi kosalo āmantetī’”ti.

“Thưa vâng, tâu Ðại vương,” người ấy vâng đáp vua Pasenadi nước Kosala, đi đến Bà-la-môn Sañjaya thuộc dòng họ Ākāsa, sau khi đến, liền thưa với Bà-la-môn Sañjaya, thuộc dòng họ Ākāsa:
“Evaṁ, devā”ti kho so puriso rañño pasenadissa kosalassa paṭissutvā yena sañjayo brāhmaṇo ākāsagotto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā sañjayaṁ brāhmaṇaṁ ākāsagottaṁ etadavoca:

“Thưa Tôn giả, vua Pasenadi nước Kosala cho gọi Tôn giả”.
“rājā taṁ, bhante, pasenadi kosalo āmantetī”ti.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:
Atha kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, rất có thể những điều Thế Tôn nói về một vấn đề khác, được người ta gán vào một vấn đề khác.
“siyā nu kho, bhante, bhagavatā aññadeva kiñci sandhāya bhāsitaṁ, tañca jano aññathāpi paccāgaccheyya.

Bạch Thế Tôn, liên hệ vấn đề gì Thế Tôn tự xem là nói những lời nói ấy?”
Yathā kathaṁ pana, bhante, bhagavā abhijānāti vācaṁ bhāsitā”ti?

“Thưa Ðại vương, Ta tự xem là đã nói những lời như sau:
“Evaṁ kho ahaṁ, mahārāja, abhijānāmi vācaṁ bhāsitā:

‘Không có một Sa-môn hay Bà-la-môn nào có thể trong một lúc, biết hoàn toàn và thấy hoàn toàn, không thể có sự tình như vậy’”.
‘natthi so samaṇo vā brāhmaṇo vā yo sakideva sabbaṁ ñassati, sabbaṁ dakkhiti, netaṁ ṭhānaṁ vijjatī’”ti.

“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết có nhân duyên. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết liên hệ đến nhân duyên và nói như sau:
“Heturūpaṁ, bhante, bhagavā āha; saheturūpaṁ, bhante, bhagavā āha:

‘Không có một Sa-môn nào hay Bà-la-môn nào có thể trong một lúc, biết hoàn toàn và thấy hoàn toàn, không thể có sự tình như vậy’.
‘natthi so samaṇo vā brāhmaṇo vā yo sakideva sabbaṁ ñassati, sabbaṁ dakkhiti, netaṁ ṭhānaṁ vijjatī’ti.

Bạch Thế Tôn, có bốn giai cấp này:
Cattārome, bhante, vaṇṇā—

Sát-đế-lị, Bà-la-môn, Phệ-xá và Thủ-đà.
khattiyā, brāhmaṇā, vessā, suddā.

Bạch Thế Tôn, giữa bốn giai cấp này có những khác biệt nào, sai biệt nào?”
Imesaṁ nu kho, bhante, catunnaṁ vaṇṇānaṁ siyā viseso siyā nānākaraṇan”ti?

“Thưa Ðại vương, có bốn giai cấp này:
“Cattārome, mahārāja, vaṇṇā—

Sát-đế-lị, Bà-la-môn, Phệ-xá và Thủ-đà.
khattiyā, brāhmaṇā, vessā, suddā.

Thưa Ðại vương, giữa bốn giai cấp này, hai giai cấp:
Imesaṁ kho, mahārāja, catunnaṁ vaṇṇānaṁ dve vaṇṇā aggamakkhāyanti—

Sát-đế-lị và Bà-la-môn được xem là:
khattiyā ca brāhmaṇā ca—

tối thượng về xưng hô; hai giai cấp kia từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay và giúp đỡ họ các công việc.”
yadidaṁ abhivādanapaccuṭṭhānaañjalikammasāmīcikammānī”ti.

“Bạch Thế Tôn, con không hỏi về hiện tại.
“Nāhaṁ, bhante, bhagavantaṁ diṭṭhadhammikaṁ pucchāmi;

Bạch Thế Tôn, con hỏi về tương lai.
samparāyikāhaṁ, bhante, bhagavantaṁ pucchāmi.

Bạch Thế Tôn, có bốn giai cấp này:
Cattārome, bhante, vaṇṇā—

Sát-đế-lị, Bà-la-môn, Phệ-xá và Thủ-đà.
khattiyā, brāhmaṇā, vessā, suddā.

Bạch Thế Tôn, trong bốn giai cấp này, có những khác biệt nào, sai biệt nào?”
Imesaṁ nu kho, bhante, catunnaṁ vaṇṇānaṁ siyā viseso siyā nānākaraṇan”ti?

“Thưa Ðại vương, có năm tinh cần chi này.
“Pañcimāni, mahārāja, padhāniyaṅgāni.

Thế nào là năm?
Katamāni pañca?

Ở đây, thưa Ðại vương, Tỷ-kheo có lòng tin, tin tưởng sự giác ngộ của Như Lai:
Idha, mahārāja, bhikkhu saddho hoti, saddahati tathāgatassa bodhiṁ:

‘Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’
‘itipi so bhagavā arahaṁ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṁ buddho bhagavā’ti;

Vị ấy ít bệnh, ít não, sự tiêu hóa được điều hòa, không lạnh quá, không nóng quá, trung bình, hợp với tinh tấn.
appābādho hoti appātaṅko samavepākiniyā gahaṇiyā samannāgato nātisītāya nāccuṇhāya majjhimāya padhānakkhamāya;

Vị ấy không gian trá, không xảo trá, nêu rõ tự mình như chơn đối với bậc Ðạo sư, đối với các vị sáng suốt hay đối với các đồng Phạm hạnh.
asaṭho hoti amāyāvī yathābhūtaṁ attānaṁ āvikattā satthari vā viññūsu vā sabrahmacārīsu;

Vị ấy sống siêng năng, tinh tấn, từ bỏ các ác pháp, thành tựu các thiện pháp, kiên cố, kiên trì, không từ bỏ gánh nặng đối với thiện pháp.
āraddhavīriyo viharati akusalānaṁ dhammānaṁ pahānāya, kusalānaṁ dhammānaṁ upasampadāya, thāmavā daḷhaparakkamo anikkhittadhuro kusalesu dhammesu;

Vị ấy có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sự sanh diệt các pháp, với sự thể nhập của các bậc Thánh, đưa đến chơn chánh đoạn diệt các khổ đau”.
paññavā hoti udayatthagāminiyā paññāya samannāgato ariyāya nibbedhikāya sammādukkhakkhayagāminiyā—

Này Đại Vương, đây là năm thành tựu tinh cần chi.
imāni kho, mahārāja, pañca padhāniyaṅgāni.

Thưa Ðại vương có bốn giai cấp này:
Cattārome, mahārāja, vaṇṇā—

Sát-đế-lị, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà.
khattiyā, brāhmaṇā, vessā, suddā.

Và nếu các giai cấp này thành tựu năm tinh cần chi này,
Te cassu imehi pañcahi padhāniyaṅgehi samannāgatā;

như vậy sẽ đưa đến hạnh phúc, an lạc lâu dài cho họ.”
ettha pana nesaṁ assa dīgharattaṁ hitāya sukhāyā”ti.

“Bạch Thế Tôn, có bốn giai cấp này:
“Cattārome, bhante, vaṇṇā—

Sát-đế-lị, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà.
khattiyā, brāhmaṇā, vessā, suddā.

Nếu những vị này thành tựu năm tinh cần chi này;
Te cassu imehi pañcahi padhāniyaṅgehi samannāgatā;

bạch Thế Tôn, ở đây có sự khác biệt gì, có sự sai biệt gì?”
ettha pana nesaṁ, bhante, siyā viseso siyā nānākaraṇan”ti?

“Thưa Ðại vương, ở đây, Ta nói đến sự sai biệt trong tinh cần.
“Ettha kho nesāhaṁ, mahārāja, padhānavemattataṁ vadāmi.

Ví như, thưa Ðại vương, giữa những con voi đáng được điều phục, hay những con ngựa đáng được điều phục, hay những con bò đáng được điều phục, có hai con voi, hai con ngựa, hay hai con bò được khéo điều phục, được khéo huấn luyện, và có hai con voi, hai con ngựa, hay hai con bò không được khéo điều phục, không được khéo huấn luyện.
Seyyathāpissu, mahārāja, dve hatthidammā vā assadammā vā godammā vā sudantā suvinītā, dve hatthidammā vā assadammā vā godammā vā adantā avinītā.

Thưa Ðại Vương, Ðại vương nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññasi, mahārāja,

Hai con voi, hai con ngựa, hay hai con bò được khéo điều phục, được khéo huấn luyện, có phải chúng được điều phục, đạt được khả năng điều phục (dantakaranam), chúng được điều phục, đạt được vị trí điều phục (dantabhumi)?”
ye te dve hatthidammā vā assadammā vā godammā vā sudantā suvinītā, api nu te dantāva dantakāraṇaṁ gaccheyyuṁ, dantāva dantabhūmiṁ sampāpuṇeyyun”ti?

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”
“Evaṁ, bhante”.

“Còn hai con voi, hai con ngựa, hay hai con bò không được khéo điều phục kia, không được khéo huấn luyện kia, không được điều phục mà chúng đạt được khả năng điều phục, không được điều phục mà chúng đạt được vị trí điều phục như hai con voi, hai con ngựa, hay hai con bò được khéo điều phục kia, được khéo huấn luyện kia?”
“Ye pana te dve hatthidammā vā assadammā vā godammā vā adantā avinītā, api nu te adantāva dantakāraṇaṁ gaccheyyuṁ, adantāva dantabhūmiṁ sampāpuṇeyyuṁ, seyyathāpi te dve hatthidammā vā assadammā vā godammā vā sudantā suvinītā”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṁ, bhante”.

“Cũng vậy, thưa Ðại vương, những gì đạt được do lòng tin, do ít bệnh tật, do không gian trá, không dối trá, do tinh cần tinh tấn, do trí tuệ, cũng sẽ do bất tín, do nhiều bệnh tật, do xảo trá, do dối trá đạt được, sự tình như vậy không thể xảy ra.”
“Evameva kho, mahārāja, yaṁ taṁ saddhena pattabbaṁ appābādhena asaṭhena amāyāvinā āraddhavīriyena paññavatā, taṁ vata assaddho bahvābādho saṭho māyāvī kusīto duppañño pāpuṇissatīti—netaṁ ṭhānaṁ vijjatī”ti.

“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết có nhân duyên (heturupam), Thế Tôn thuyết liên hệ đến nhân duyên.
“Heturūpaṁ, bhante, bhagavā āha; saheturūpaṁ, bhante, bhagavā āha.

Bạch Thế Tôn, có bốn giai cấp này:
Cattārome, bhante, vaṇṇā—

Sát-đế-lị, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà.
khattiyā, brāhmaṇā, vessā, suddā.

Và nếu các vị này thành tựu năm tinh cần chi này, nếu họ chân chánh tinh cần,
Te cassu imehi pañcahi padhāniyaṅgehi samannāgatā te cassu sammappadhānā;

thì bạch Thế Tôn, có thể có sự khác biệt nào, có thể có sự sai biệt nào giữa các vị này không?”
ettha pana nesaṁ, bhante, siyā viseso siyā nānākaraṇan”ti?

“Thưa Ðại vương, ta nói không có sự khác biệt gì về phương diện giải thoát đối với giải thoát.
“Ettha kho nesāhaṁ, mahārāja, na kiñci nānākaraṇaṁ vadāmi—yadidaṁ vimuttiyā vimuttiṁ.

Ví như, thưa Ðại vương, một người đem củi khô từ cây gỗ tếch lại và nhen lửa, lửa sẽ hiện ra.
Seyyathāpi, mahārāja, puriso sukkhaṁ sākakaṭṭhaṁ ādāya aggiṁ abhinibbatteyya, tejo pātukareyya;

Ví như, thưa Ðại vương, một người đem củi khô từ cây Thốt Nốt lại và nhen lửa, lửa sẽ hiện ra.
athāparo puriso sukkhaṁ sālakaṭṭhaṁ ādāya aggiṁ abhinibbatteyya, tejo pātukareyya;

Rồi có một người khác đem củi khô từ cây xoài lại và nhen lửa, lửa sẽ hiện ra.
athāparo puriso sukkhaṁ ambakaṭṭhaṁ ādāya aggiṁ abhinibbatteyya, tejo pātukareyya;

Rồi có một người khác đem củi khô từ cây Sung lại và nhen lửa, lửa sẽ hiện ra.
athāparo puriso sukkhaṁ udumbarakaṭṭhaṁ ādāya aggiṁ abhinibbatteyya, tejo pātukareyya.

Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññasi, mahārāja,

Vì rằng các loại củi dùng để nhen lửa sai khác, vậy có những sai khác gì, giữa ngọn lửa với ngọn lửa, giữa màu sắc với màu sắc, giữa ánh sáng với ánh sáng?”
siyā nu kho tesaṁ aggīnaṁ nānādāruto abhinibbattānaṁ kiñci nānākaraṇaṁ acciyā vā acciṁ, vaṇṇena vā vaṇṇaṁ, ābhāya vā ābhan”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṁ, bhante”.

“Cũng vậy, thưa Ðại vương, với sức nóng do tinh tấn tạo nên, do tinh cần nhen nhúm lên, ở đây, Ta nói không có một sự sai biệt gì về giải thoát đối với giải thoát.”
“Evameva kho, mahārāja, yaṁ taṁ tejaṁ vīriyā nimmathitaṁ padhānābhinibbattaṁ, nāhaṁ tattha kiñci nānākaraṇaṁ vadāmi—yadidaṁ vimuttiyā vimuttin”ti.

“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết có nhân duyên, Thế Tôn thuyết liên hệ đến nhân duyên.
“Heturūpaṁ, bhante, bhagavā āha; saheturūpaṁ, bhante, bhagavā āha.

Bạch Thế Tôn, nhưng có chư Thiên không?”
Kiṁ pana, bhante, atthi devā”ti?

Thưa Ðại vương, sao Ðại vương có thể nói: “Bạch Thế Tôn, nhưng có chư Thiên không?”
“Kiṁ pana tvaṁ, mahārāja, evaṁ vadesi: ‘kiṁ pana, bhante, atthi devā’”ti?

“Bạch Thế Tôn, không biết chư Thiên ấy có sanh lại tại đây không hay không sanh lại tại đây?”
“Yadi vā te, bhante, devā āgantāro itthattaṁ yadi vā anāgantāro itthattaṁ”?

“Thưa Ðại vương, chư Thiên nào có não hại tâm, sanh lại tại đây; chư Thiên nào không có não hại tâm, không sanh lại tại đây.”
“Ye te, mahārāja, devā sabyābajjhā te devā āgantāro itthattaṁ, ye te devā abyābajjhā te devā anāgantāro itthattan”ti.

Khi được nghe nói vậy, tướng quân Viḍūḍabha bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, viṭaṭūbho senāpati bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, chư Thiên có não hại tâm, sanh lại tại đây có thể đánh đuổi hay trục xuất chư Thiên không có não hại tâm, không sanh lại tại đây không?”
“ye te, bhante, devā sabyābajjhā āgantāro itthattaṁ te devā, ye te devā abyābajjhā anāgantāro itthattaṁ te deve tamhā ṭhānā cāvessanti vā pabbājessanti vā”ti?

Tôn giả Ānanda khởi lên ý nghĩ như sau:
Atha kho āyasmato ānandassa etadahosi:

“Tướng quân Viḍūḍabha này là con vua Pasenadi nước Kosala;
“ayaṁ kho viṭaṭūbho senāpati rañño pasenadissa kosalassa putto;

ta là con Thế Tôn.
ahaṁ bhagavato putto.

Nay đã đến thời người con nói chuyện với người con”.
Ayaṁ kho kālo yaṁ putto puttena manteyyā”ti.

Rồi Tôn giả Ānanda nói với tướng quân Viḍūḍabha:
Atha kho āyasmā ānando viṭaṭūbhaṁ senāpatiṁ āmantesi:

“Này Tướng quân, nay ở đây, tôi sẽ hỏi lại Tướng quân vấn đề này. Nếu có thể được, Tướng quân hãy trả lời.
“tena hi, senāpati, taññevettha paṭipucchissāmi; yathā te khameyya tathā naṁ byākareyyāsi.

Này Tướng quân, Tướng quân nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññasi, senāpati,

Xa rộng cho đến lãnh thổ của vua Pasenadi nước Kosala, và tại chỗ của vua Pasenadi nước Kosala ngự trị, trị vì; tại chỗ ấy, vua Pasenadi nước Kosala có thể đánh đuổi hay trục xuất vị Sa-môn hay Bà-la-môn có công đức tu hành hay không có công đức tu hành, có sống Phạm hạnh hay không sống Phạm hạnh ra khỏi chỗ ấy không?”
yāvatā rañño pasenadissa kosalassa vijitaṁ yattha ca rājā pasenadi kosalo issariyādhipaccaṁ rajjaṁ kāreti, pahoti tattha rājā pasenadi kosalo samaṇaṁ vā brāhmaṇaṁ vā puññavantaṁ vā apuññavantaṁ vā brahmacariyavantaṁ vā abrahmacariyavantaṁ vā tamhā ṭhānā cāvetuṁ vā pabbājetuṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, xa rộng cho đến lãnh thổ của vua Pasenadi nước Kosala và chỗ nào vua Pasenadi nước Kosala ngự trị, trị vì; tại chỗ ấy, vua Pasenadi nước Kosala có thể đánh đuổi hay trục xuất vị Sa-môn hay Bà-la-môn có công đức tu hành, hay không có công đức tu hành, có sống Phạm hạnh hay không sống Phạm hạnh ra khỏi chỗ ấy.”
“Yāvatā, bho, rañño pasenadissa kosalassa vijitaṁ yattha ca rājā pasenadi kosalo issariyādhipaccaṁ rajjaṁ kāreti, pahoti tattha rājā pasenadi kosalo samaṇaṁ vā brāhmaṇaṁ vā puññavantaṁ vā apuññavantaṁ vā brahmacariyavantaṁ vā abrahmacariyavantaṁ vā tamhā ṭhānā cāvetuṁ vā pabbājetuṁ vā”ti.

“Thưa Tướng quân, Tướng quân nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, senāpati,

Xa rộng ra ngoài lãnh thổ của vua Pasenadi nước Kosala, và tại chỗ của vua Pasenadi nước Kosala không ngự trị, không trị vì; tại chỗ ấy, vua Pasenadi nước Kosala có thể đánh đuổi hay trục xuất vị Sa-môn hay Bà-la-môn có công đức tu hành hay không có công đức tu hành, có sống Phạm hạnh hay không sống Phạm hạnh ra khỏi chỗ ấy không?”
yāvatā rañño pasenadissa kosalassa avijitaṁ yattha ca rājā pasenadi kosalo na issariyādhipaccaṁ rajjaṁ kāreti, tattha pahoti rājā pasenadi kosalo samaṇaṁ vā brāhmaṇaṁ vā puññavantaṁ vā apuññavantaṁ vā brahmacariyavantaṁ vā abrahmacariyavantaṁ vā tamhā ṭhānā cāvetuṁ vā pabbājetuṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, xa rộng ra ngoài lãnh thổ của vua Pasenadi nước Kosala, và tại chỗ của vua Pasenadi nước Kosala không ngự trị, không trị vì; tại chỗ ấy, vua Pasenadi nước Kosala không có thể đánh đuổi … ra khỏi chỗ ấy.”
“Yāvatā, bho, rañño pasenadissa kosalassa avijitaṁ yattha ca rājā pasenadi kosalo na issariyādhipaccaṁ rajjaṁ kāreti, na tattha pahoti rājā pasenadi kosalo samaṇaṁ vā brāhmaṇaṁ vā puññavantaṁ vā apuññavantaṁ vā brahmacariyavantaṁ vā abrahmacariyavantaṁ vā tamhā ṭhānā cāvetuṁ vā pabbājetuṁ vā”ti.

“Thưa Tướng quân, Tướng quân có nghe nói đến chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba không?
“Taṁ kiṁ maññasi, senāpati, sutā te devā tāvatiṁsā”ti?

“Thưa vâng, Tôn giả.
“Evaṁ, bho.

Chúng tôi có nghe nói đến chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba.
Sutā me devā tāvatiṁsā.

Và ở đây, vua Pasenadi nước Kosala cũng nghe có nói đến chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba.”
Idhāpi bhotā raññā pasenadinā kosalena sutā devā tāvatiṁsā”ti.

“Này Tướng quân, Ông nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, senāpati,

Vua Pasenadi nước Kosala có thể đánh đuổi hay trục xuất chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba ra khỏi chỗ ấy được không?”
pahoti rājā pasenadi kosalo deve tāvatiṁse tamhā ṭhānā cāvetuṁ vā pabbājetuṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vua Pasenadi nước Kosala không thể thấy chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba, làm sao vua lại có thể đánh đuổi hay trục xuất chư Thiên ở cõi trời Ba mươi ba ra khỏi chỗ ấy?”
“Dassanampi, bho, rājā pasenadi kosalo deve tāvatiṁse nappahoti, kuto pana tamhā ṭhānā cāvessati vā pabbājessati vā”ti?

“Cũng vậy, này Tướng quân, chư Thiên có não hại tâm, sanh lại tại đây, không có thể thấy được chư Thiên không có não hại tâm, không sanh lại tại đây, làm sao lại có thể đánh đuổi hay tẩn xuất chư Thiên không có não hại tâm, không sanh lại tại đây ra khỏi chỗ ấy được?”
“Evameva kho, senāpati, ye te devā sabyābajjhā āgantāro itthattaṁ te devā, ye te devā abyābajjhā anāgantāro itthattaṁ te deve dassanāyapi nappahonti; kuto pana tamhā ṭhānā cāvessanti vā pabbājessanti vā”ti?

Rồi vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:
Atha kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ấy tên gọi là gì?”
“konāmo ayaṁ, bhante, bhikkhū”ti?

“Thưa Ðại vương, tên là Ānanda.”
“Ānando nāma, mahārājā”ti.

“Thật hân hoan thay! Thật hoan hỷ thay!
“Ānando vata bho, ānandarūpo vata bho.

Tôn giả Ānanda thuyết có nhân duyên, Ānanda thuyết liên hệ đến nhân duyên.
Heturūpaṁ, bhante, āyasmā ānando āha; saheturūpaṁ, bhante, āyasmā ānando āha.

Bạch Thế Tôn, có Phạm thiên không?”
Kiṁ pana, bhante, atthi brahmā”ti?

Thưa Ðại vương, sao Ðại vương có thể nói như vậy: “Bạch Thế Tôn, có Phạm thiên không?”.
“Kiṁ pana tvaṁ, mahārāja, evaṁ vadesi: ‘kiṁ pana, bhante, atthi brahmā’”ti?

“Bạch Thế Tôn, Phạm thiên có sanh lại tại đây hay không sanh lại tại đây?”
“Yadi vā so, bhante, brahmā āgantā itthattaṁ, yadi vā anāgantā itthattan”ti?

“Thưa Ðại vương, nếu Phạm thiên có não hại tâm thì Phạm thiên ấy có sanh lại tại đây. Nếu không có não hại tâm, thời Phạm thiên ấy không sanh lại tại đây.”
“Yo so, mahārāja, brahmā sabyābajjho so brahmā āgantā itthattaṁ, yo so brahmā abyābajjho so brahmā anāgantā itthattan”ti.

Rồi một người khác tâu với vua Pasenadi nước Kosala:
Atha kho aññataro puriso rājānaṁ pasenadiṁ kosalaṁ etadavoca:

“Tâu Ðại vương, Bà-la-môn Sañjaya, thuộc dòng họ Ākāsa đã đến.”
“sañjayo, mahārāja, brāhmaṇo ākāsagotto āgato”ti.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala nói với Bà-la-môn Sañjaya, thuộc dòng họ Ākāsa:
Atha kho rājā pasenadi kosalo sañjayaṁ brāhmaṇaṁ ākāsagottaṁ etadavoca:

“Này Bà-la-môn, ai phổ biến câu chuyện này trong nội cung?”
“ko nu kho, brāhmaṇa, imaṁ kathāvatthuṁ rājantepure abbhudāhāsī”ti?

“Tâu Ðại vương, tướng quân Viḍūḍabha.”
“Viṭaṭūbho, mahārāja, senāpatī”ti.

Tướng quân Viḍūḍabha lại nói:
Viṭaṭūbho senāpati evamāha:

“Tâu Ðại vương, chính Bà-la-môn Sañjaya, thuộc dòng họ Ākāsa.”
“sañjayo, mahārāja, brāhmaṇo ākāsagotto”ti.

Rồi có một người tâu với vua Pasenadi nước Kosala:
Atha kho aññataro puriso rājānaṁ pasenadiṁ kosalaṁ etadavoca:

“Tâu Ðại vương, nay đã đến thời dùng xe.”
“yānakālo, mahārājā”ti.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala bạch Thế Tôn:
Atha kho rājā pasenadi kosalo bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, chúng con đã hỏi Thế Tôn về nhất thiết trí. Thế Tôn đã trả lời về nhất thiết trí.
“sabbaññutaṁ mayaṁ, bhante, bhagavantaṁ apucchimhā, sabbaññutaṁ bhagavā byākāsi;

Câu trả lời ấy làm cho chúng con thoải mái, được chúng con chấp nhận, nên chúng con hoan hỷ.
tañca panamhākaṁ ruccati ceva khamati ca, tena camhā attamanā.

Bạch Thế Tôn, chúng con đã hỏi Thế Tôn về sự thanh tịnh của bốn giai cấp. Thế Tôn đã trả lời cho chúng con về sự thanh tịnh của bốn giai cấp. Câu trả lời ấy làm cho chúng con thoải mái, được chúng con chấp nhận, nên chúng con hoan hỷ.
Cātuvaṇṇisuddhiṁ mayaṁ, bhante, bhagavantaṁ apucchimhā, cātuvaṇṇisuddhiṁ bhagavā byākāsi; tañca panamhākaṁ ruccati ceva khamati ca, tena camhā attamanā.

Bạch Thế Tôn, chúng con hỏi Thế Tôn về chư Thiên và Thế Tôn đã trả lời về chư Thiên. Câu trả lời ấy làm cho chúng con thoải mái, được chúng con chấp nhận nên chúng con hoan hỷ.
Adhideve mayaṁ, bhante, bhagavantaṁ apucchimhā, adhideve bhagavā byākāsi; tañca panamhākaṁ ruccati ceva khamati ca, tena camhā attamanā.

Bạch Thế Tôn, chúng con hỏi Thế Tôn về Phạm thiên và Thế Tôn đã trả lời về Phạm thiên. Câu trả lời ấy làm cho chúng con thoải mái, được chúng con chấp nhận nên làm chúng con hoan hỷ.
Adhibrahmānaṁ mayaṁ, bhante, bhagavantaṁ apucchimhā, adhibrahmānaṁ bhagavā byākāsi; tañca panamhākaṁ ruccati ceva khamati ca, tena camhā attamanā.

Bạch Thế Tôn, và những điều gì chúng con hỏi Thế Tôn, vấn đề ấy Thế Tôn đã trả lời; và câu trả lời ấy làm cho chúng con thoải mái, được chúng con chấp nhận nên chúng con hoan hỷ.
Yaṁ yadeva ca mayaṁ bhagavantaṁ apucchimhā taṁ tadeva bhagavā byākāsi; tañca panamhākaṁ ruccati ceva khamati ca, tena camhā attamanā.

Bạch Thế Tôn, nay chúng con phải đi.
Handa ca dāni mayaṁ, bhante, gacchāma;

Chúng con có nhiều công việc, có nhiều phận sự phải làm.”
bahukiccā mayaṁ bahukaraṇīyā”ti.

“Ðại vương hãy làm những gì Ðại vương nghĩ là hợp thời.”
“Yassadāni tvaṁ, mahārāja, kālaṁ maññasī”ti.

Rồi vua Pasenadi nước Kosala hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Atha kho rājā pasenadi kosalo bhagavato bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā pakkāmīti.

Kaṇṇakatthalasuttaṁ niṭṭhitaṁ dasamaṁ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt