Sáng/Tối

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 50

Trung Bộ 50
Majjhima Nikāya 50

Kinh Hàng Ma
Māratajjanīyasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—

Một thời Tôn giả Mahāmoggallāna trú giữa dân chúng Bhagga, tại Núi Cá Sấu, rừng Bhesakaḷā, vườn Lộc Uyển.
ekaṁ samayaṁ āyasmā mahāmoggallāno bhaggesu viharati susumāragire bhesakaḷāvane migadāye.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahāmoggallāna đang đi kinh hành ngoài trời.
Tena kho pana samayena āyasmā mahāmoggallāno abbhokāse caṅkamati.

Khi ấy Ác ma đi vào bụng Tôn giả Mahāmoggallāna, ở trong bao tử.
Tena kho pana samayena māro pāpimā āyasmato mahāmoggallānassa kucchigato hoti koṭṭhamanupaviṭṭho.

Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna nghĩ như sau:
Atha kho āyasmato mahāmoggallānassa etadahosi:

“Nay sao bụng của Ta lại nặng nặng như có gì chồng chất quá đầy?”
“kiṁ nu kho me kucchi garugaro viya? Māsācitaṁ maññe”ti.

Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna từ chỗ kinh hành bước xuống, đi vào tự viện, và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
Atha kho āyasmā mahāmoggallāno caṅkamā orohitvā vihāraṁ pavisitvā paññatte āsane nisīdi.

Sau khi ngồi, Tôn giả Mahāmoggallāna tự chánh niệm.
Nisajja kho āyasmā mahāmoggallāno paccattaṁ yoniso manasākāsi.

Tôn giả Mahāmoggallāna thấy Ác ma, sau khi đi vào trong bụng, đang ở trong bao tử.
Addasā kho āyasmā mahāmoggallāno māraṁ pāpimantaṁ kucchigataṁ koṭṭhamanupaviṭṭhaṁ.

Thấy vậy, Tôn giả liền nói với Ác ma:
Disvāna māraṁ pāpimantaṁ etadavoca:

“Hãy đi ra, Ác ma!
“nikkhama, pāpima;

Hãy đi ra, Ác ma!
nikkhama, pāpima.

Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai.
Mā tathāgataṁ vihesesi, mā tathāgatasāvakaṁ.

Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài!”
Mā te ahosi dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyā”ti.

Rồi Ác ma suy nghĩ:
Atha kho mārassa pāpimato etadahosi:

“Vị Sa-môn này không biết ta, không thấy ta, lại nói như sau:
“ajānameva kho maṁ ayaṁ samaṇo apassaṁ evamāha:

“Hãy đi ra, Ác ma!
‘nikkhama, pāpima;

Hãy đi ra Ác ma!
nikkhama, pāpima.

Chớ có phiền nhiễu Như Lai, và đệ tử Như Lai.
Mā tathāgataṁ vihesesi, mā tathāgatasāvakaṁ.

Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài”.
Mā te ahosi dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyā’ti.

Chính vị Bổn sư cũng chưa biết ta mau như vậy, làm sao vị đệ tử này có thể biết ta được?””
Yopissa so satthā sopi maṁ neva khippaṁ jāneyya, kuto pana maṁ ayaṁ sāvako jānissatī”ti?

Rồi Tôn giả Mahāmoggallāna lại nói với Ác ma như sau:
Atha kho āyasmā mahāmoggallāno māraṁ pāpimantaṁ etadavoca:

“Này Ác ma, ta biết Ngươi. Ðừng có nghĩ rằng:
“evampi kho tāhaṁ, pāpima, jānāmi, mā tvaṁ maññittho:

“Vị ấy không biết ta”.
‘na maṁ jānātī’ti.

Ngươi là Ác ma.
Māro tvamasi, pāpima;

Này Ác ma, Ngươi nghĩ như sau:
tuyhañhi, pāpima, evaṁ hoti:

“Vị Sa-môn này không biết ta, không thấy ta, lại nói như sau:
‘ajānameva kho maṁ ayaṁ samaṇo apassaṁ evamāha—

“Hãy đi ra, Ác ma!
nikkhama, pāpima;

hãy đi ra Ác ma!
nikkhama, pāpima.

Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai.
Mā tathāgataṁ vihesesi, mā tathāgatasāvakaṁ.

Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài!”
Mā te ahosi dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyāti.

Chính vị Bổn sư cũng không biết ta mau như vậy, làm sao vị đệ tử này có thể biết ta được?”
Yopissa so satthā sopi maṁ neva khippaṁ jāneyya, kuto pana maṁ ayaṁ sāvako jānissatī’”ti?

Rồi Ác ma suy nghĩ như sau:
Atha kho mārassa pāpimato etadahosi:

“Vị Sa-môn này biết ta, thấy ta và nói như sau:
“jānameva kho maṁ ayaṁ samaṇo passaṁ evamāha:

“Hãy đi ra, Ác ma!
‘nikkhama, pāpima;

Hãy đi ra, Ác ma!
nikkhama, pāpima.

Chớ có phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai.
Mā tathāgataṁ vihesesi, mā tathāgatasāvakaṁ.

Chớ có khiến cho Ngươi bị bất hạnh, đau khổ lâu dài”.
Mā te ahosi dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyā’”ti.

Rồi Ác ma từ miệng Tôn giả Mahāmoggallāna bước ra, và đứng dựa nơi cửa miệng.
Atha kho māro pāpimā āyasmato mahāmoggallānassa mukhato uggantvā paccaggaḷe aṭṭhāsi.

Tôn giả Mahāmoggallāna thấy Ác ma đứng dựa nơi cửa miệng, bèn nói Ác ma:
Addasā kho āyasmā mahāmoggallāno māraṁ pāpimantaṁ paccaggaḷe ṭhitaṁ; disvāna māraṁ pāpimantaṁ etadavoca:

“Ác ma, ở đây, ta cũng thấy Ngươi. Ngươi chớ có nghĩ rằng:
“etthāpi kho tāhaṁ, pāpima, passāmi; mā tvaṁ maññittho

“Vị ấy không thấy ta”.
‘na maṁ passatī’ti.

Này Ác ma, nay Ngươi đang đứng dựa nơi cửa miệng.
Eso tvaṁ, pāpima, paccaggaḷe ṭhito.

Này Ác ma, thuở xưa, ta là Ác ma tên là Dūsī, và chị ta tên là Kāḷī.
Bhūtapubbāhaṁ, pāpima, dūsī nāma māro ahosiṁ, tassa me kāḷī nāma bhaginī.

Ngươi là con trai chị ta.
Tassā tvaṁ putto.

Như vậy Ngươi là cháu ta.
So me tvaṁ bhāgineyyo ahosi.

Này Ác ma, lúc bấy giờ, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ra đời.
Tena kho pana, pāpima, samayena kakusandho bhagavā arahaṁ sammāsambuddho loke uppanno hoti.

Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác có hai vị đệ tử tên là Vidhura, và Sañjīva, hai bậc tối thượng, hai bậc Hiền giả.
Kakusandhassa kho pana, pāpima, bhagavato arahato sammāsambuddhassa vidhurasañjīvaṁ nāma sāvakayugaṁ ahosi aggaṁ bhaddayugaṁ.

Này Ác ma, đối với các vị đệ tử của Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
Yāvatā kho pana, pāpima, kakusandhassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa sāvakā.

không một ai ở đây có thể bằng Tôn giả Vidhura về thuyết pháp.
Tesu na ca koci āyasmatā vidhurena samasamo hoti yadidaṁ dhammadesanāya.

Này Ác ma, vì lý do này, Tôn giả Vidhura được gọi là Vidhura (Vô song).
Iminā kho evaṁ, pāpima, pariyāyena āyasmato vidhurassa vidhuroteva samaññā udapādi.

Còn Tôn giả Sañjīva là vị đi rừng, đi gốc cây, đi các chỗ không người và chứng Diệt thọ tưởng định không khó khăn gì.
Āyasmā pana, pāpima, sañjīvo araññagatopi rukkhamūlagatopi suññāgāragatopi appakasireneva saññāvedayitanirodhaṁ samāpajjati.

Này Ác ma, thuở xưa, Tôn giả Sañjīva đang ngồi nhập Diệt thọ tưởng định dưới một gốc cây.
Bhūtapubbaṁ, pāpima, āyasmā sañjīvo aññatarasmiṁ rukkhamūle saññāvedayitanirodhaṁ samāpanno nisinno hoti.

Này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành thấy Tôn giả Sañjīva đang ngồi nhập Diệt thọ tưởng định dưới một gốc cây, thấy vậy liền nói với nhau như sau:
Addasaṁsu kho, pāpima, gopālakā pasupālakā kassakā pathāvino āyasmantaṁ sañjīvaṁ aññatarasmiṁ rukkhamūle saññāvedayitanirodhaṁ samāpannaṁ nisinnaṁ; disvāna tesaṁ etadahosi:

‘Thật vị diệu thay, này các Tôn giả! Thật hy hữu thay, này các Tôn giả!
‘acchariyaṁ vata bho, abbhutaṁ vata, bho.

Vị Sa-môn này chết mà vẫn ngồi.
Ayaṁ samaṇo nisinnakova kālaṅkato.

Chúng ta hãy hỏa táng ngài!’
Handa naṁ dahāmā’ti.

Rồi này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành liền thâu lượm cỏ, củi và phân bò chồng lên thân Tôn giả Sañjīva, đốt lửa và bỏ đi.
Atha kho te, pāpima, gopālakā pasupālakā kassakā pathāvino tiṇañca kaṭṭhañca gomayañca saṅkaḍḍhitvā āyasmato sañjīvassa kāye upacinitvā aggiṁ datvā pakkamiṁsu.

Này Ác ma, Tôn giả Sañjīva, sau khi đêm ấy đã tàn, liền xuất định, phủi áo, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát vào làng khất thực.
Atha kho, pāpima, āyasmā sañjīvo tassā rattiyā accayena tāya samāpattiyā vuṭṭhahitvā cīvarāni papphoṭetvā pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya gāmaṁ piṇḍāya pāvisi.

Này Ác ma, các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, các lữ hành thấy Tôn giả Sañjīva đang đi khất thực, thấy vậy liền nghĩ:
Addasaṁsu kho te, pāpima, gopālakā pasupālakā kassakā pathāvino āyasmantaṁ sañjīvaṁ piṇḍāya carantaṁ; disvāna nesaṁ etadahosi:

“Thật vị diệu thay, này các Tôn giả! Thật hy hữu thay, này các Tôn giả!
‘acchariyaṁ vata bho, abbhutaṁ vata, bho.

Vị Sa-môn này chết mà vẫn ngồi, nay được sống lại”.
Ayaṁ samaṇo nisinnakova kālaṅkato, svāyaṁ paṭisañjīvito’ti.

Này Ác ma, vì lý do này, Tôn giả Sañjīva được xưng danh là Sañjīva, Sañjīva.
Iminā kho evaṁ, pāpima, pariyāyena āyasmato sañjīvassa sañjīvoteva samaññā udapādi.

Này Ác ma, rồi Ác ma Dūsī nghĩ như sau:
Atha kho, pāpima, dūsissa mārassa etadahosi:

“Ta không biết chỗ đến và chỗ đi của các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện pháp này.
‘imesaṁ kho ahaṁ bhikkhūnaṁ sīlavantānaṁ kalyāṇadhammānaṁ neva jānāmi āgatiṁ vā gatiṁ vā.

Vậy nay ta hãy nhập vào hàng Bà-la-môn gia chủ và nói như sau:
Yannūnāhaṁ brāhmaṇagahapatike anvāviseyyaṁ—

“Hãy đến phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh.
etha, tumhe bhikkhū sīlavante kalyāṇadhamme akkosatha paribhāsatha rosetha vihesetha.

Do bị phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại bởi các Người, các vị ấy có thể đổi tâm và như vậy, Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ. “
Appeva nāma tumhehi akkosiyamānānaṁ paribhāsiyamānānaṁ rosiyamānānaṁ vihesiyamānānaṁ siyā cittassa aññathattaṁ, yathā taṁ dūsī māro labhetha otāran’ti.

Rồi Ác Ma Dūsī nhập vào hàng Bà-la-môn gia chủ và nói như sau:
Atha kho te, pāpima, dūsī māro brāhmaṇagahapatike anvāvisi:

“Hãy đến phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh.
‘etha, tumhe bhikkhū sīlavante kalyāṇadhamme akkosatha paribhāsatha rosetha vihesetha.

Do bị phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại bởi các Người, các vị ấy có thể đổi tâm và như vậy, Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ. “
Appeva nāma tumhehi akkosiyamānānaṁ paribhāsiyamānānaṁ rosiyamānānaṁ vihesiyamānānaṁ siyā cittassa aññathattaṁ, yathā taṁ dūsī māro labhetha otāran’ti.

Rồi này Ác ma, Ác ma Dūsī nhập vào hàng Bà-la-môn gia chủ và phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại các vị Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh như sau:
Atha kho te, pāpima, brāhmaṇagahapatikā anvāvisiṭṭhā dūsinā mārena bhikkhū sīlavante kalyāṇadhamme akkosanti paribhāsanti rosenti vihesenti:

“Những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Họ nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền” và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền.
‘ime pana muṇḍakā samaṇakā ibbhā kiṇhā bandhupādāpaccā “jhāyinosmā jhāyinosmā”ti pattakkhandhā adhomukhā madhurakajātā jhāyanti pajjhāyanti nijjhāyanti apajjhāyanti.

Ví như con cú đậu trên cành cây, khi đang rình chuột; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Chúng nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền”. Và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền.
Seyyathāpi nāma ulūko rukkhasākhāyaṁ mūsikaṁ maggayamāno jhāyati pajjhāyati nijjhāyati apajjhāyati; evamevime muṇḍakā samaṇakā ibbhā kiṇhā bandhupādāpaccā “jhāyinosmā jhāyinosmā”ti pattakkhandhā adhomukhā madhurakajātā jhāyanti pajjhāyanti nijjhāyanti apajjhāyanti.

Ví như con giả can trên bờ sông, khi đang rình cá; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Họ nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền” và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền.
Seyyathāpi nāma kotthu nadītīre macche maggayamāno jhāyati pajjhāyati nijjhāyati apajjhāyati; evamevime muṇḍakā samaṇakā ibbhā kiṇhā bandhupādāpaccā “jhāyinosmā jhāyinosmā”ti pattakkhandhā adhomukhā madhurakajātā jhāyanti pajjhāyanti nijjhāyanti apajjhāyanti.

Ví như con mèo ngồi bên đống rác, khi đang rình chuột; tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Họ nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền” và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền.
Seyyathāpi nāma biḷāro sandhisamalasaṅkaṭīre mūsikaṁ maggayamāno jhāyati pajjhāyati nijjhāyati apajjhāyati; evamevime muṇḍakā samaṇakā ibbhā kiṇhā bandhupādāpaccā “jhāyinosmā jhāyinosmā”ti pattakkhandhā adhomukhā madhurakajātā jhāyanti pajjhāyanti nijjhāyanti apajjhāyanti.

Ví như con lừa, gánh nặng được đặt xuống, đang tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền;
Seyyathāpi nāma gadrabho vahacchinno sandhisamalasaṅkaṭīre jhāyati pajjhāyati nijjhāyati apajjhāyati;

cũng vậy, những kẻ trọc đầu, Sa-môn giả hiệu, tiện nô, hắc nô, sanh tự gót chân này. Chúng nói: “Chúng tôi tu thiền, chúng tôi tu thiền”, và với hai vai thụt xuống, với mặt cúi xuống, mê mê dại dại, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền”.
evamevime muṇḍakā samaṇakā ibbhā kiṇhā bandhupādāpaccā “jhāyinosmā jhāyinosmā”ti pattakkhandhā adhomukhā madhurakajātā jhāyanti pajjhāyanti nijjhāyanti apajjhāyantī’ti.

Này Ác ma lúc bấy giờ, phần lớn những người ấy sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Ye kho pana, pāpima, tena samayena manussā kālaṁ karonti yebhuyyena kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjanti.

Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác gọi các Tỷ-kheo:
Atha kho, pāpima, kakusandho bhagavā arahaṁ sammāsambuddho bhikkhū āmantesi:

“Này các Tỷ-kheo, những Bà-la-môn gia chủ bị Ác ma Dūsī nhập vào và nói:
‘anvāviṭṭhā kho, bhikkhave, brāhmaṇagahapatikā dūsinā mārena—

“Hãy đến phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Do bị phỉ báng, mạ lị, thống trách và nhiễu hại bởi các Người, các vị ấy có thể đổi tâm, và như vậy Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ”.
etha, tumhe bhikkhū sīlavante kalyāṇadhamme akkosatha paribhāsatha rosetha vihesetha, appeva nāma tumhehi akkosiyamānānaṁ paribhāsiyamānānaṁ rosiyamānānaṁ vihesiyamānānaṁ siyā cittassa aññathattaṁ, yathā taṁ dūsī māro labhetha otāran’ti.

Này các Tỷ-kheo, hãy đến biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, rồi an trú, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Etha, tumhe, bhikkhave, mettāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā viharatha, tathā dutiyaṁ, tathā tatiyaṁ, tathā catutthaṁ. Iti uddhamadho tiriyaṁ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṁ lokaṁ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharatha.

Với tâm câu hữu với bi…
Karuṇāsahagatena cetasā …pe…

với tâm câu hữu với hỷ…,
muditāsahagatena cetasā …pe…

biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, rồi an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân”.
upekkhāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā viharatha, tathā dutiyaṁ, tathā tatiyaṁ, tathā catutthaṁ. Iti uddhamadho tiriyaṁ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṁ lokaṁ upekkhāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā viharathā’ti.

Rồi Ác ma, các Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác khuyến khích như vậy, khuyến giáo như vậy, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến các chỗ không vắng, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ rồi an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba; cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Atha kho te, pāpima, bhikkhū kakusandhena bhagavatā arahatā sammāsambuddhena evaṁ ovadiyamānā evaṁ anusāsiyamānā araññagatāpi rukkhamūlagatāpi suññāgāragatāpi mettāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā vihariṁsu, tathā dutiyaṁ, tathā tatiyaṁ, tathā catutthaṁ. Iti uddhamadho tiriyaṁ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṁ lokaṁ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā vihariṁsu.

Với tâm câu hữu với bi…
Karuṇāsahagatena cetasā …pe…

với tâm câu hữu với hỷ…
muditāsahagatena cetasā …pe…

biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả rồi an trú; cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
upekkhāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā vihariṁsu, tathā dutiyaṁ, tathā tatiyaṁ, tathā catutthaṁ. Iti uddhamadho tiriyaṁ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṁ lokaṁ upekkhāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyābajjhena pharitvā vihariṁsu.

Này Ác ma, rồi Mara Dūsī suy nghĩ như sau:
Atha kho, pāpima, dūsissa mārassa etadahosi:

“Làm như vậy, ta không thể biết chỗ đến hay chỗ đi của các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Vậy ta hãy nhập vào các Bà-la-môn gia chủ và nói như sau:
‘evampi kho ahaṁ karonto imesaṁ bhikkhūnaṁ sīlavantānaṁ kalyāṇadhammānaṁ neva jānāmi āgatiṁ vā gatiṁ vā, yannūnāhaṁ brāhmaṇagahapatike anvāviseyyaṁ:

“Hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh này.
“etha, tumhe bhikkhū sīlavante kalyāṇadhamme sakkarotha garuṁ karotha mānetha pūjetha,

Do được tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, các vị ấy có thể đổi tâm và như vậy, Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ”.
appeva nāma tumhehi sakkariyamānānaṁ garukariyamānānaṁ māniyamānānaṁ pūjiyamānānaṁ siyā cittassa aññathattaṁ, yathā taṁ dūsī māro labhetha otāran”’ti.

Rồi này Ác ma, Ác ma Dūsī nhập vào các Bà-la-môn gia chủ và nói:
Atha kho te, pāpima, dūsī māro brāhmaṇagahapatike anvāvisi:

“Hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Những vị này được các Ngươi tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường có thể đổi tâm, và như vậy Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ”.
‘etha, tumhe bhikkhū sīlavante kalyāṇadhamme sakkarotha garuṁ karotha mānetha pūjetha, appeva nāma tumhehi sakkariyamānānaṁ garukariyamānānaṁ māniyamānānaṁ pūjiyamānānaṁ siyā cittassa aññathattaṁ, yathā taṁ dūsī māro labhetha otāran’ti.

Rồi này Ác ma, những Bà-la-môn gia chủ, bị Ác ma Dūsī xâm nhập, tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh. Này Ác ma, sau một thời gian những vị này mạng chung và phần lớn sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, Thiên giới và đời này.
Atha kho te, pāpima, brāhmaṇagahapatikā anvāviṭṭhā dūsinā mārena bhikkhū sīlavante kalyāṇadhamme sakkaronti garuṁ karonti mānenti pūjenti.

Này Ác ma, sau một thời gian những vị này mạng chung và phần lớn sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, Thiên giới và đời này.
Ye kho pana, pāpima, tena samayena manussā kālaṁ karonti yebhuyyena kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjanti.

Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusamdha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác gọi các Tỷ-kheo:
Atha kho, pāpima, kakusandho bhagavā arahaṁ sammāsambuddho bhikkhū āmantesi:

Này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn gia chủ bị Ác ma Dūsī xâm nhập và nói như sau:
‘anvāviṭṭhā kho, bhikkhave, brāhmaṇagahapatikā dūsinā mārena:

“Các Ngươi hãy đến tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện tánh.
“etha, tumhe bhikkhū sīlavante kalyāṇadhamme sakkarotha garuṁ karotha mānetha pūjetha,

Những vị này được các Ngươi tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường có thể đổi tâm và như vậy Ác ma Dūsī mới có dịp để chi phối họ”.
appeva nāma tumhehi sakkariyamānānaṁ garukariyamānānaṁ māniyamānānaṁ pūjiyamānānaṁ siyā cittassa aññathattaṁ, yathā taṁ dūsī māro labhetha otāran”ti.

Này các Tỷ-kheo, các Ngươi hãy sống quán bất tịnh trên thân, quán tưởng nhàm chán đối với các món ăn, quán tưởng bất khả lạc đối với tất cả thế gian, quán tánh vô thường đối với tất cả hành”.
Etha, tumhe, bhikkhave, asubhānupassino kāye viharatha, āhāre paṭikūlasaññino, sabbaloke anabhiratisaññino, sabbasaṅkhāresu aniccānupassino’ti.

Và này Ác ma, những Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn Kakusandha khuyến khích như vậy, khuyến giáo như vậy, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến các chỗ trống vắng, sống quán (tánh) bất tịnh trên thân, (quán) tưởng nhàm chán đối với các món ăn, (quán) tưởng bất khả lạc đối với tất cả thế gian, quán tánh vô thường đối với tất cả hành.
Atha kho te, pāpima, bhikkhū kakusandhena bhagavatā arahatā sammāsambuddhena evaṁ ovadiyamānā evaṁ anusāsiyamānā araññagatāpi rukkhamūlagatāpi suññāgāragatāpi asubhānupassino kāye vihariṁsu, āhāre paṭikūlasaññino, sabbaloke anabhiratisaññino, sabbasaṅkhāresu aniccānupassino.

Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, buổi sáng đắp y, mang y bát, với Tôn giả Vidhura là thị giả, đi vào làng để khất thực.
Atha kho, pāpima, kakusandho bhagavā arahaṁ sammāsambuddho pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya āyasmatā vidhurena pacchāsamaṇena gāmaṁ piṇḍāya pāvisi.

Rồi này Ác ma, Ác ma Dūsī nhập vào một đứa trẻ, cầm một hòn đá, đánh trên đầu Tôn giả Vidhura khiến bể đầu.
Atha kho, pāpima, dūsī māro aññataraṁ kumārakaṁ anvāvisitvā sakkharaṁ gahetvā āyasmato vidhurassa sīse pahāramadāsi; sīsaṁ vobhindi.

Rồi này Ác ma, Tôn giả Vidhura với đầu bị bể và với máu chảy, vẫn đi sau lưng Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
Atha kho, pāpima, āyasmā vidhuro bhinnena sīsena lohitena gaḷantena kakusandhaṁyeva bhagavantaṁ arahantaṁ sammāsambuddhaṁ piṭṭhito piṭṭhito anubandhi.

Rồi này Ác ma, Thế Tôn Kakusandha bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nhìn xung quanh với cái nhìn con voi chúa và suy nghĩ như sau:
Atha kho, pāpima, kakusandho bhagavā arahaṁ sammāsambuddho nāgāpalokitaṁ apalokesi:

“Thật vậy, Ác ma Dūsī không biết sự vừa phải”.
‘na vāyaṁ dūsī māro mattamaññāsī’ti.

Này Ác ma, khi Thế Tôn nhìn xung quanh, thì Ác ma Dūsī liền từ chỗ ấy từ trần và sinh vào cõi địa ngục.
Sahāpalokanāya ca pana, pāpima, dūsī māro tamhā ca ṭhānā cavi mahānirayañca upapajji.

Này Ác ma, địa ngục ấy được ba tên gọi:
Tassa kho pana, pāpima, mahānirayassa tayo nāmadheyyā honti—

Sáu xúc xứ địa ngục, Thiết qua địa ngục, Biệt thọ khổ địa ngục.
chaphassāyataniko itipi, saṅkusamāhato itipi, paccattavedaniyo itipi.

Rồi các người giữ địa ngục đến ta và nói như sau:
Atha kho maṁ, pāpima, nirayapālā upasaṅkamitvā etadavocuṁ:

“Này Tôn giả, khi cọc sắt sẽ gặp cọc sắt trong tim của Ngươi,
‘yadā kho te, mārisa, saṅkunā saṅku hadaye samāgaccheyya.

Ngươi mới hiểu như sau:
Atha naṁ tvaṁ jāneyyāsi:

“Ta sẽ bị trụng nước sôi một ngàn năm ở địa ngục.”
“vassasahassaṁ me niraye paccamānassā”’ti.

Và ta, này Ác ma, ta bị trụng nước sôi, trải nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm trong địa ngục.
So kho ahaṁ, pāpima, bahūni vassāni bahūni vassasatāni bahūni vassasahassāni tasmiṁ mahāniraye apacciṁ.

Trải qua một vạn năm trong đại địa ngục ấy, ta bị nấu sôi và cảm thọ cảm giác gọi là Vutthanima.
Dasavassasahassāni tasseva mahānirayassa ussade apacciṁ vuṭṭhānimaṁ nāma vedanaṁ vediyamāno.

Do vậy, này Ác ma, thân của ta là như vậy, thân như con người,
Tassa mayhaṁ, pāpima, evarūpo kāyo hoti, seyyathāpi manussassa.

và đầu ta là như vậy, đầu như con cá.
Evarūpaṁ sīsaṁ hoti, seyyathāpi macchassa.

Địa ngục ấy thế nào?
Nơi Dūsī bị đốt,
Vì đánh Vidhura,
Đệ tử Kakusandha.
Kīdiso nirayo āsi,
yattha dūsī apaccatha;
Vidhuraṁ sāvakamāsajja,
kakusandhañca brāhmaṇaṁ.

Có trăm loại cọc sắt,
Tự cảm thọ riêng biệt,
Đó là nơi địa ngục,
Nơi Dūsī bị đốt,
Vì đánh Vidhura,
Đệ tử Kakusandha.
Sataṁ āsi ayosaṅkū,
sabbe paccattavedanā;
Īdiso nirayo āsi,
yattha dūsī apaccatha;
Vidhuraṁ sāvakamāsajja,
kakusandhañca brāhmaṇaṁ.

Kẻ ác, nếu nhiễu hại,
Vị tỷ-kheo biết rõ,
Vị đệ tử của Phật,
Ngươi rơi vào khổ đau.
Yo etamabhijānāti,
bhikkhu buddhassa sāvako;
Tādisaṁ bhikkhumāsajja,
kaṇha dukkhaṁ nigacchasi.

Với cung điện nhiều kiếp,
Đứng lên trên giữa Hồ,
Màu Sa-phia rực rỡ,
Lấp lánh và toả sáng,
Thiên nữ múa tại đây,
Với nhiều màu sặc sỡ.
Majjhe sarassa tiṭṭhanti,
vimānā kappaṭṭhāyino;
Veḷuriyavaṇṇā rucirā,
accimanto pabhassarā;
Accharā tattha naccanti,
puthu nānattavaṇṇiyo.

Kẻ ác, nếu nhiễu hại,
Vị tỷ-kheo biết rõ,
Vị đệ tử của Phật,
Ngươi rơi vào khổ đau.
Yo etamabhijānāti,
bhikkhu buddhassa sāvako;
Tādisaṁ bhikkhumāsajja,
kaṇha dukkhaṁ nigacchasi.

Đức Phật cho Phép ta,
Lay chuyển Mi-gā Tự,
Chỉ với ngón Chân Cái,
Chứng kiến bởi Chư Tăng.
Yo ve buddhena codito,
bhikkhu saṅghassa pekkhato;
Migāramātupāsādaṁ,
pādaṅguṭṭhena kampayi.

Kẻ ác, nếu nhiễu hại,
Vị tỷ-kheo biết rõ,
Vị đệ tử của Phật,
Ngươi rơi vào khổ đau.
Yo etamabhijānāti,
bhikkhu buddhassa sāvako;
Tādisaṁ bhikkhumāsajja,
kaṇha dukkhaṁ nigacchasi.

Với ngón chân thần lực,
Ta làm cho rung chuyển,
Cung điện của Đế-Thích,
Khiến Thiên Chúng kinh ngạc.
Yo vejayantaṁ pāsādaṁ,
pādaṅguṭṭhena kampayi;
Iddhibalenupatthaddho,
saṁvejesi ca devatā.

Kẻ ác, nếu nhiễu hại,
Vị tỷ-kheo biết rõ,
Vị đệ tử của Phật,
Ngươi rơi vào khổ đau.
Yo etamabhijānāti,
bhikkhu buddhassa sāvako;
Tādisaṁ bhikkhumāsajja,
kaṇha dukkhaṁ nigacchasi.

Ta hỏi Đức Đế-Thích,
Tại cung điện Đế-Thích,
vāsava, ngươi có nhớ,
Ái tận, đã giải thoát?
Đế-Thích đã trả lời,
Sự thật khi được hỏi.
Yo vejayantapāsāde,
sakkaṁ so paripucchati;
Api vāsava jānāsi,
taṇhākkhayavimuttiyo;
Tassa sakko viyākāsi,
pañhaṁ puṭṭho yathātathaṁ.

Kẻ ác, nếu nhiễu hại,
Vị tỷ-kheo biết rõ,
Vị đệ tử của Phật,
Ngươi rơi vào khổ đau.
Yo etamabhijānāti,
bhikkhu buddhassa sāvako;
Tādisaṁ bhikkhumāsajja,
kaṇha dukkhaṁ nigacchasi.

Ta đã hỏi Phạm Thiên,
Trước Đại Sảnh Hội Chúng,
Hiền giả nay vẫn chấp,
Các tà kiến thuở xưa,
Có thấy ánh Hào Quang,
Vượt qua Phạm Thiên Giới.
Yo brahmaṁ paripucchati,
sudhammāyābhito sabhaṁ;
Ajjāpi tyāvuso diṭṭhi,
yā te diṭṭhi pure ahu;
Passasi vītivattantaṁ,
brahmaloke pabhassaraṁ.

Vị Phạm Thiên trả lời,
Sự thật, từng câu một,
Tôn giả, ta không chấp,
Tà kiến trong thuở xưa.
Tassa brahmā viyākāsi,
anupubbaṁ yathātathaṁ;
Na me mārisa sā diṭṭhi,
yā me diṭṭhi pure ahu.

Ta thấy ánh Hào Quang,
Vượt qua Phạm Thiên giới,
Làm sao ta nói được:
Ta trường tồn, có ngã.
Passāmi vītivattantaṁ,
brahmaloke pabhassaraṁ;
Sohaṁ ajja kathaṁ vajjaṁ,
ahaṁ niccomhi sassato.

Kẻ ác, nếu nhiễu hại,
Vị tỷ-kheo biết rõ,
Vị đệ tử của Phật,
Ngươi rơi vào khổ đau.
Yo etamabhijānāti,
bhikkhu buddhassa sāvako;
Tādisaṁ bhikkhumāsajja,
kaṇha dukkhaṁ nigacchasi.

Ta chạm đỉnh Me-ru,
Nhờ thiền để giải thoát,
Ta đến gặp nhiều người,
Những vị ở phía Đông.
Yo mahāmeruno kūṭaṁ,
vimokkhena aphassayi;
Vanaṁ pubbavidehānaṁ,
ye ca bhūmisayā narā.

Kẻ ác, nếu nhiễu hại,
Vị tỷ-kheo biết rõ,
Vị đệ tử của Phật,
Ngươi rơi vào khổ đau.
Yo etamabhijānāti,
bhikkhu buddhassa sāvako;
Tādisaṁ bhikkhumāsajja,
kaṇha dukkhaṁ nigacchasi.

Dù cho lửa không nghĩ:
“Ta đốt cháy kẻ ngu”,
Kẻ ngu tấn công lửa,
Bị ngọn lửa đốt cháy.
Na ve aggi cetayati,
‘ahaṁ bālaṁ ḍahāmī’ti;
Bālo ca jalitaṁ aggiṁ,
āsajja naṁ sa ḍayhati.

Cũng vậy, này Ác-Ma,
Do nhiễu hại Như Lai,
Ngươi tự đốt cháy mình,
Như kẻ ngu chạm lửa.
Evameva tuvaṁ māra,
āsajja naṁ tathāgataṁ;
Sayaṁ ḍahissasi attānaṁ,
bālo aggiṁva samphusaṁ.

Ngươi đã tạo ác nghiệp,
Do nhiễu hại Như Lai,
Ác-Ma ngươi có thấy,
Ác quả ngươi đã làm.
Apuññaṁ pasavī māro,
āsajja naṁ tathāgataṁ;
Kiṁ nu maññasi pāpima,
na me pāpaṁ vipaccati.

Ðiều ác ngươi chất chứa,
Tích luỹ thật lâu dài,
Ác-Ma, từ bỏ Phật,
Chớ vọng tưởng Tỷ-kheo!
Karoto cīyati pāpaṁ,
cirarattāya antaka;
Māra nibbinda buddhamhā,
āsaṁ mākāsi bhikkhusu.

Tỷ-kheo trách Ác ma,
Tại rừng Bhesekaḷā,
Vị Dạ xoa, thất vọng,
Biến mất tại chỗ ấy.”
Iti māraṁ atajjesi,
bhikkhu bhesakaḷāvane;
Tato so dummano yakkho,
tatthevantaradhāyathā”ti.

Māratajjanīyasuttaṁ niṭṭhitaṁ dasamaṁ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt