Trung Bộ 49
Majjhima Nikāya 49
Phạm Thiên Thỉnh Cầu
Brahmanimantanikasutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī, tại Jetavana, vườn Ông Anāthapiṇḍika (Cấp-Cô-Ðộc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi:
“Này các Tỷ-kheo!”
“bhikkhavo”ti.
“Bạch Thế Tôn,” các Tỷ-kheo vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
“Bhadante”ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṁ. Bhagavā etadavoca:
“Một thời, này các Tỷ-kheo, Ta ở tại Ukkattha trong rừng Subhagavana, dưới gốc cây Tala vương.
“Ekamidāhaṁ, bhikkhave, samayaṁ ukkaṭṭhāyaṁ viharāmi subhagavane sālarājamūle.
Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka khởi lên ác tà kiến như sau:
Tena kho pana, bhikkhave, samayena bakassa brahmuno evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ hoti:
“Cái này là thường, cái này là thường hằng, cái này là thường tại, cái này là toàn diện, cái này không bị biến hoại, cái này không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, ngoài cái này, không có một giải thoát nào khác hơn”.
‘idaṁ niccaṁ, idaṁ dhuvaṁ, idaṁ sassataṁ, idaṁ kevalaṁ, idaṁ acavanadhammaṁ, idañhi na jāyati na jīyati na mīyati na cavati na upapajjati, ito ca panaññaṁ uttari nissaraṇaṁ natthī’ti.
Này các Tỷ-kheo, sau khi với tự tâm biết được tâm của Phạm thiên Baka, như người lực sĩ duỗi ra cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, Ta biến mất tại Ukkattha, rừng Sabhagavana, dưới gốc cây Tala vương, và hiện ra tại cõi Phạm thiên ấy.
Atha khvāhaṁ, bhikkhave, bakassa brahmuno cetasā cetoparivitakkamaññāya—seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṁ vā bāhaṁ pasāreyya, pasāritaṁ vā bāhaṁ samiñjeyya; evameva—ukkaṭṭhāyaṁ subhagavane sālarājamūle antarahito tasmiṁ brahmaloke pāturahosiṁ.
Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka thấy Ta từ xa đi đến, sau khi thấy,
Addasā kho maṁ, bhikkhave, bako brahmā dūratova āgacchantaṁ;
liền nói với Ta:
disvāna maṁ etadavoca:
Hãy đến, Tôn giả, thiện lai Tôn giả,
‘ehi kho, mārisa, svāgataṁ, mārisa.
đã lâu, nay Tôn giả mới có dịp đến đây. Này Tôn giả, cái này là toàn diện, cái này là thường hằng, cái này là thường tại, cái này là toàn diện, cái này không bị biến hoại, cái này không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, ngoài cái này không có một giải thoát nào khác hơn.
Cirassaṁ kho, mārisa, imaṁ pariyāyamakāsi yadidaṁ idhāgamanāya. Idañhi, mārisa, niccaṁ, idaṁ dhuvaṁ, idaṁ sassataṁ, idaṁ kevalaṁ, idaṁ acavanadhammaṁ, idañhi na jāyati na jīyati na mīyati na cavati na upapajjati. Ito ca panaññaṁ uttari nissaraṇaṁ natthī’ti.
Khi nghe nói vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói với Phạm thiên Baka:
Evaṁ vutte, ahaṁ, bhikkhave, bakaṁ brahmānaṁ etadavocaṁ:
“Thật sự Phạm thiên Baka bị chìm đắm trong vô minh, thật sự Phạm thiên Baka bị chìm đắm trong vô minh, khi cái vô thường lại nói là thường, cái không thường hằng lại nói là thường hằng, cái không thường tại lại nói là thường tại, cái không toàn diện lại nói là toàn diện, cái bị biến hoại lại nói là:
‘avijjāgato vata bho bako brahmā, avijjāgato vata bho bako brahmā; yatra hi nāma aniccaṁyeva samānaṁ niccanti vakkhati, addhuvaṁyeva samānaṁ dhuvanti vakkhati, asassataṁyeva samānaṁ sassatanti vakkhati, akevalaṁyeva samānaṁ kevalanti vakkhati, cavanadhammaṁyeva samānaṁ acavanadhammanti vakkhati; yattha ca pana jāyati jīyati mīyati cavati upapajjati tañca vakkhati:
không biến hoại, và tại chỗ có sanh, có già, có chết, có diệt, có khởi, lại nói không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi; có một giải thoát khác hơn lại nói là không có một giải thoát nào khác hơn.”
“idañhi na jāyati na jīyati na mīyati na cavati na upapajjatī”ti; santañca panaññaṁ uttari nissaraṇaṁ “natthaññaṁ uttari nissaraṇan”ti vakkhatī’ti.
Này các Tỷ-kheo, rồi Ác ma nhập vào một Phạm thiên quyến thuộc và nói với Ta như sau:
Atha kho, bhikkhave, māro pāpimā aññataraṁ brahmapārisajjaṁ anvāvisitvā maṁ etadavoca:
“Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chớ có can thiệp vào đây! Chớ có can thiệp vào đây! Này Tỷ-kheo, Phạm thiên này là Ðại Phạm thiên, Toàn năng, Tối thắng, Biến nhãn, Thượng đế, Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ, Ðại tôn, Chúa tể mọi định mạng, đấng Tự tại, Tổ phụ các chúng sanh đã và sẽ sanh.
‘bhikkhu bhikkhu, metamāsado metamāsado, eso hi, bhikkhu, brahmā mahābrahmā abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī issaro kattā nimmātā seṭṭho sajitā vasī pitā bhūtabhabyānaṁ.
Này Tỷ-kheo, thuở xưa có những Sa-môn, Bà-la-môn, ở đời phỉ báng địa đại, ghê tởm địa đại, phỉ báng thủy đại, ghê tởm thủy đại, phỉ báng hỏa đại, ghê tởm hỏa đại, phỉ báng phong đại, ghê tởm phong đại, phỉ báng chúng sanh, ghê tởm chúng sanh, phỉ báng chư Thiên, ghê tởm chư Thiên, phỉ báng Sanh chủ, ghê tởm Sanh chủ, phỉ báng Phạm thiên, ghê tởm Phạm thiên.
Ahesuṁ kho ye, bhikkhu, tayā pubbe samaṇabrāhmaṇā lokasmiṁ pathavīgarahakā pathavījigucchakā, āpagarahakā āpajigucchakā, tejagarahakā tejajigucchakā, vāyagarahakā vāyajigucchakā, bhūtagarahakā bhūtajigucchakā, devagarahakā devajigucchakā, pajāpatigarahakā pajāpatijigucchakā, brahmagarahakā brahmajigucchakā—
sau khi thân hoại, mạng sống bị cắt đứt, phải an trú vào thân ti tiện.
te kāyassa bhedā pāṇupacchedā hīne kāye patiṭṭhitā ahesuṁ.
Này các Tỷ-kheo, còn những Sa-môn, Bà-la-môn ở đời xưa kia, tán thán địa đại, hoan hỷ địa đại, tán thán thủy đại, hoan hỷ thủy đại, tán thán hỏa đại, hoan hỷ hỏa đại, tán thán phong đại, hoan hỷ phong đại, tán thán chúng sanh, hoan hỷ chúng sanh, tán thán chư Thiên, hoan hỷ chư Thiên, tán thán Sanh chủ, hoan hỷ Sanh chủ, tán thán Phạm thiên, hoan hỷ Phạm thiên.
Ye pana, bhikkhu, tayā pubbe samaṇabrāhmaṇā lokasmiṁ pathavīpasaṁsakā pathavābhinandino, āpapasaṁsakā āpābhinandino, tejapasaṁsakā tejābhinandino, vāyapasaṁsakā vāyābhinandino, bhūtapasaṁsakā bhūtābhinandino, devapasaṁsakā devābhinandino, pajāpatipasaṁsakā pajāpatābhinandino, brahmapasaṁsakā brahmābhinandino—
sau khi thân hoại, mạng sống bi cắt đứt, những vị này được an trú vào các thân vi diệu.
te kāyassa bhedā pāṇupacchedā paṇīte kāye patiṭṭhitā.
Này các Tỷ-kheo, vì vấn đề này, ta nói như sau:
Taṁ tāhaṁ, bhikkhu, evaṁ vadāmi:
“Phàm Phạm thiên nói với Ông những gì, Ông hãy làm như vậy. Ông chớ có đi quá xa lời Phạm thiên nói.”
“iṅgha tvaṁ, mārisa, yadeva te brahmā āha tadeva tvaṁ karohi, mā tvaṁ brahmuno vacanaṁ upātivattittho”.
Này Tỷ-kheo, nếu Ông đi quá xa lời Phạm thiên nói, thì giống như người dùng gậy đánh đập thần tài (Siri) đang đi đến; giống như một người đang rơi vào vực thẳm, tay chân lại không bám vào đất. Này Tỷ-kheo, sự việc sẽ xảy ra cho Ông như vậy.
Sace kho tvaṁ, bhikkhu, brahmuno vacanaṁ upātivattissasi, seyyathāpi nāma puriso siriṁ āgacchantiṁ daṇḍena paṭippaṇāmeyya, seyyathāpi vā pana, bhikkhu, puriso narakappapāte papatanto hatthehi ca pādehi ca pathaviṁ virādheyya, evaṁ sampadamidaṁ, bhikkhu, tuyhaṁ bhavissati.
Này Tỷ-kheo, phàm Phạm thiên nói với Ông những gì, Ông hãy làm như vậy, Ông chớ có đi quá xa lời Phạm thiên nói.
Iṅgha tvaṁ, mārisa, yadeva te brahmā āha tadeva tvaṁ karohi, mā tvaṁ brahmuno vacanaṁ upātivattittho.
Này Tỷ-kheo, Ông có thấy chúng Phạm thiên đang ngồi chăng?”
Nanu tvaṁ, bhikkhu, passasi brahmaparisaṁ sannipatitan’ti?
Rồi này các Tỷ-kheo, Ác ma dắt Ta đến chúng Phạm thiên.
Iti kho maṁ, bhikkhave, māro pāpimā brahmaparisaṁ upanesi.
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với Ác ma như sau:
Evaṁ vutte, ahaṁ, bhikkhave, māraṁ pāpimantaṁ etadavocaṁ:
‘Này Ác ma, Ta biết Ngươi. Chớ có nghĩ rằng:
‘jānāmi kho tāhaṁ, pāpima; mā tvaṁ maññittho:
“Vị ấy không biết ta”.
“na maṁ jānātī”ti.
Ngươi là Ác ma.
Māro tvamasi, pāpima.
Này Ác ma, phàm là Phạm thiên, phàm là Phạm thiên chúng, phàm là Phạm thiên quyến thuộc, tất cả đều nằm trong tay của Ngươi, tất cả đều nằm trong quyền lực của Ngươi.
Yo ceva, pāpima, brahmā, yā ca brahmaparisā, ye ca brahmapārisajjā, sabbeva tava hatthagatā sabbeva tava vasaṅgatā.
Này Ác ma, nếu Ngươi nghĩ rằng:
Tuyhañhi, pāpima, evaṁ hoti:
“Mong vị này nằm trong tay ta; mong vị này nằm trong quyền lực của ta!”.
“esopi me assa hatthagato, esopi me assa vasaṅgato”ti.
Này Ác ma, Ta không nằm trong tay của Ngươi. Ta không nằm trong quyền lực của Ngươi.
Ahaṁ kho pana, pāpima, neva tava hatthagato neva tava vasaṅgato’ti.
Này các Tỷ-kheo, khi được nói vậy, Phạm thiên Baka nói với Ta như sau:
Evaṁ vutte, bhikkhave, bako brahmā maṁ etadavoca:
Này Tôn giả, cái gì thường còn, ta nói là thường còn; cái gì thường hằng, ta nói là thường hằng; cái gì thường tại, ta nói thường tại; cái gì toàn diện, ta nói là toàn diện; cái gì không biến hoại, ta nói là không biến hoại. Ở đây, cái gì không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, ta nói rằng cái ấy không sanh, không già, không chết, không diệt, không khởi, và vì không có một sự giải thoát nào khác hơn, ta nói là không có một sự giải thoát nào khác hơn.
‘ahañhi, mārisa, niccaṁyeva samānaṁ “niccan”ti vadāmi, dhuvaṁyeva samānaṁ “dhuvan”ti vadāmi, sassataṁyeva samānaṁ “sassatan”ti vadāmi, kevalaṁyeva samānaṁ “kevalan”ti vadāmi, acavanadhammaṁyeva samānaṁ “acavanadhamman”ti vadāmi, yattha ca pana na jāyati na jīyati na mīyati na cavati na upapajjati tadevāhaṁ vadāmi: “idañhi na jāyati na jīyati na mīyati na cavati na upapajjatī”ti. Asantañca panaññaṁ uttari nissaraṇaṁ “natthaññaṁ uttari nissaraṇan”ti vadāmi.
Này Tỷ-kheo, xưa kia có những Sa-môn, Bà-la-môn ở trong những đời trước Ông; những vị này đã tu hành khổ hạnh lâu dài cho đến trọn tuổi thọ của những người đó, những vị này phải biết:” Hoặc có một sự giải thoát khác hơn, thì biết rằng có một sự giải thoát khác hơn; hoặc không có một sự giải thoát khác hơn, thì biết rằng không có một sự giải thoát nào khác hơn”.
Ahesuṁ kho, bhikkhu, tayā pubbe samaṇabrāhmaṇā lokasmiṁ yāvatakaṁ tuyhaṁ kasiṇaṁ āyu tāvatakaṁ tesaṁ tapokammameva ahosi. Te kho evaṁ jāneyyuṁ santañca panaññaṁ uttari nissaraṇaṁ “atthaññaṁ uttari nissaraṇan”ti, asantaṁ vā aññaṁ uttari nissaraṇaṁ “natthaññaṁ uttari nissaraṇan”ti.
Này Tỷ-kheo, ta nói như sau với Ông:
Taṁ tāhaṁ, bhikkhu, evaṁ vadāmi:
Ông sẽ không thấy một giải thoát nào khác hơn, dầu ông có phải chịu đựng mệt nhọc và khổ cực.
“na cevaññaṁ uttari nissaraṇaṁ dakkhissasi, yāvadeva ca pana kilamathassa vighātassa bhāgī bhavissasi.
Này Tỷ-kheo, nếu Ông y trước địa đại, Ông sẽ gần ta, trú tại lãnh địa của ta, làm theo ý ta muốn, bị đứng ngoài lề;
Sace kho tvaṁ, bhikkhu, pathaviṁ ajjhosissasi, opasāyiko me bhavissasi vatthusāyiko, yathākāmakaraṇīyo bāhiteyyo.
nếu Ông y trước thủy đại…
Sace āpaṁ …
hỏa đại…
tejaṁ …
phong đại…
vāyaṁ …
chúng sanh…
bhūte …
Chư thiên…
deve …
Sanh chủ…
pajāpatiṁ …
Nếu Ông y trước Phạm thiên, Ông sẽ gần ta, trú tại lãnh địa của ta, làm theo ý ta muốn, bị đứng ra ngoài lề.”
brahmaṁ ajjhosissasi, opasāyiko me bhavissasi vatthusāyiko, yathākāmakaraṇīyo bāhiteyyo”’ti.
‘Này Phạm thiên, Ta biết việc này.
‘Ahampi kho evaṁ, brahme, jānāmi:
Nếu Ta y trước địa đại…
“sace pathaviṁ ajjhosissāmi, opasāyiko te bhavissāmi vatthusāyiko, yathākāmakaraṇīyo bāhiteyyo.
thủy đại…
Sace āpaṁ …
hỏa đại…
tejaṁ …
phong đại…
vāyaṁ …
chúng sanh…
bhūte …
chư Thiên…
deve …
Sanh chủ…
pajāpatiṁ …
Nếu Ta y trước Phạm thiên, Ta sẽ gần Ông, trú tại lãnh địa của Ông, làm theo ý Ông muốn, bị đứng ra ngoài lề. Lại nữa, này Phạm thiên, Ta biết sanh thú (gati) của Ông và Ta biết sự quang vinh của Ông.
brahmaṁ ajjhosissāmi, opasāyiko te bhavissāmi vatthusāyiko, yathākāmakaraṇīyo bāhiteyyo”ti api ca te ahaṁ, brahme, gatiñca pajānāmi, jutiñca pajānāmi:
“Phạm thiên Baka có thần lực như vậy; Phạm thiên Baka có quyền lực như vậy; Phạm thiên Baka có uy lực như vậy.”’
“evaṁ mahiddhiko bako brahmā, evaṁ mahānubhāvo bako brahmā, evaṁ mahesakkho bako brahmā”ti.
‘Này Tỷ-kheo, như Ông biết sanh thú, Ông biết sự quang vinh của ta:
Yathākathaṁ pana me tvaṁ, mārisa, gatiñca pajānāsi, jutiñca pajānāsi:
“Phạm thiên Baka có thần lực như vậy; Phạm thiên Baka có quyền lực như vậy; Phạm thiên Baka có uy lực như vậy”.
“evaṁ mahiddhiko bako brahmā, evaṁ mahānubhāvo bako brahmā, evaṁ mahesakkho bako brahmā”’ti?
‘Như nhật nguyệt lưu chuyển,
Sáng chói khắp mười phương,
Như vậy mười Thiên giới,
Dưới uy lực của Ông.
‘Yāvatā candimasūriyā,
Pariharanti disā bhanti virocanā;
Tāva sahassadhā loko,
Ettha te vattate vaso.
Ông biết chỗ cao thấp,
Có dục và không dục,
Hữu tình đến rồi đi,
Cõi này sang cõi khác”.
Paroparañca jānāsi,
atho rāgavirāginaṁ;
Itthabhāvaññathābhāvaṁ,
sattānaṁ āgatiṁ gatinti.
Như vậy, này Phạm thiên, Ta biết chỗ sanh thú và sự quang vinh của Ông:
Evaṁ kho te ahaṁ, brahme, gatiñca pajānāmi jutiñca pajānāmi:
“Phạm thiên Baka có thần lực như vậy; Phạm thiên Baka có quyền lực như vậy; Phạm thiên Baka có uy lực như vậy”.
“evaṁ mahiddhiko bako brahmā, evaṁ mahānubhāvo bako brahmā, evaṁ mahesakkho bako brahmā”ti.
Này Phạm thiên, có ba loại chư Thiên mà Ông không biết, không thấy,
Atthi kho, brahme, añño kāyo, taṁ tvaṁ na jānāsi na passasi;
nhưng Ta biết, Ta thấy.
tamahaṁ jānāmi passāmi.
Này Phạm thiên, có loại chư Thiên tên là Abhassara (Quang âm thiên), từ chư Thiên này, Ông mạng chung, và sanh ở nơi đây.
Atthi kho, brahme, ābhassarā nāma kāyo yato tvaṁ cuto idhūpapanno.
Nhưng vì Ông an trú ở đấy quá lâu, nên Ông không nhớ được. Do đó, Ông không biết, không thấy,
Tassa te aticiranivāsena sā sati pamuṭṭhā, tena taṁ tvaṁ na jānāsi na passasi;
còn Ta biết, Ta thấy.
tamahaṁ jānāmi passāmi.
Như vậy, này Phạm Thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí huống nữa là thấp hơn?
Evampi kho ahaṁ, brahme, neva te samasamo abhiññāya, kuto nīceyyaṁ?
Do vậy, Ta thù thắng hơn Ông.
Atha kho ahameva tayā bhiyyo.
Này Phạm thiên, lại có một loại chư Thiên tên là Subhakinna (Biến tịnh thiên)… lại có một loại chư Thiên tên là Vehapphala (Quảng quả thiên) mà Ông không biết, không thấy,
Atthi kho, brahme, subhakiṇho nāma kāyo, vehapphalo nāma kāyo, abhibhū nāma kāyo, taṁ tvaṁ na jānāsi na passasi;
nhưng Ta biết, Ta thấy.
tamahaṁ jānāmi passāmi.
Như vậy, này Phạm thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí, huống nữa là thấp hơn?
Evampi kho ahaṁ, brahme, neva te samasamo abhiññāya, kuto nīceyyaṁ?
Do vậy. Ta thù thắng hơn Ông.
Atha kho ahameva tayā bhiyyo.
Này Phạm thiên, Ta biết địa đại từ địa đại, cho đến giới vức địa đại, Ta không lãnh thọ địa tánh; do biết địa đại, Ta không nghĩ: “Ta là địa đại. Ta ở trong địa đại, Ta từ địa đại, địa đại là của Ta, và Ta không tôn trọng địa đại”.
Pathaviṁ kho ahaṁ, brahme, pathavito abhiññāya yāvatā pathaviyā pathavattena ananubhūtaṁ tadabhiññāya pathaviṁ nāpahosiṁ, pathaviyā nāpahosiṁ, pathavito nāpahosiṁ, pathaviṁ meti nāpahosiṁ, pathaviṁ nābhivadiṁ.
Như vậy, này Phạm thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí, huống nữa là thấp hơn?
Evampi kho ahaṁ, brahme, neva te samasamo abhiññāya, kuto nīceyyaṁ?
Do vậy, Ta thù thắng hơn Ông.
Atha kho ahameva tayā bhiyyo.
Này Phạm thiên, Ta biết thủy đại…
Āpaṁ kho ahaṁ, brahme …pe…
Này Phạm thiên, Ta biết hỏa đại…
tejaṁ kho ahaṁ, brahme …pe…
Này Phạm thiên, Ta biết phong đại…
vāyaṁ kho ahaṁ, brahme …pe…
Này Phạm thiên, Ta biết chúng sanh…
bhūte kho ahaṁ, brahme …pe…
Này Phạm thiên, Ta biết chư Thiên…
deve kho ahaṁ, brahme …pe…
Này Phạm thiên, Ta biết Sanh chủ…
pajāpatiṁ kho ahaṁ, brahme …pe…
Này Phạm thiên, Ta biết Phạm thiên…
brahmaṁ kho ahaṁ, brahme …pe…
Này Phạm thiên, Ta biết Abhassara (Quang âm thiên)…
ābhassare kho ahaṁ, brahme …pe…
Này Phạm thiên, Ta biết Subhakinna (Biến tịnh thiên)…
subhakiṇhe kho ahaṁ, brahme …pe…
Này Phạm thiên, Ta biết Vahapphala (Quảng quả thiên)…
vehapphale kho ahaṁ, brahme …pe…
Này Phạm thiên, Ta biết Abhibhu (Thắng giải)…
abhibhuṁ kho ahaṁ, brahme …pe…
Này Phạm thiên, Ta biết tất cả (Sabba) từ tất cả, cho đến giới vức tất cả, Ta không lãnh thọ nhứt thiết tánh, Ta không nghĩ: “Ta là tất cả, Ta ở trong tất cả, Ta từ tất cả, tất cả là của Ta, và Ta không tôn trọng tất cả”.
sabbaṁ kho ahaṁ, brahme, sabbato abhiññāya yāvatā sabbassa sabbattena ananubhūtaṁ tadabhiññāya sabbaṁ nāpahosiṁ sabbasmiṁ nāpahosiṁ sabbato nāpahosiṁ sabbaṁ meti nāpahosiṁ, sabbaṁ nābhivadiṁ.
Như vậy, này Phạm thiên, Ta còn không chịu ngang hàng Ông về thượng trí, huống nữa là thấp hơn?
Evampi kho ahaṁ, brahme, neva te samasamo abhiññāya, kuto nīceyyaṁ?
Do vậy, Ta thù thắng hơn Ông.’
Atha kho ahameva tayā bhiyyo’ti.
‘Này Tôn giả, đối với tất cả, nếu Tôn giả không lãnh thọ nhất thiết tánh, thì đối với Tôn giả, trở thành trống không, trống rỗng,
‘Sace kho, mārisa, sabbassa sabbattena ananubhūtaṁ, tadabhiññāya mā heva te rittakameva ahosi, tucchakameva ahosīti.
Thức là phi sở kiến, không biên tế, chói sáng tất cả, nếu không thể lãnh thọ địa đại ngang qua địa tánh, không thể lãnh thọ thủy đại ngang qua thủy tánh, không thể lãnh thọ hỏa đại ngang qua hỏa tánh, không thể lãnh thọ phong đại ngang qua phong tánh, không thể lãnh thọ chúng sanh ngang qua chúng sanh tánh, không thể lãnh thọ chư Thiên ngang qua chư Thiên tánh, không thể lãnh thọ Sanh chủ ngang qua Sanh chủ tánh, không thể lãnh thọ Phạm thiên ngang qua Phạm thiên tánh, không thể lãnh thọ Quang âm thiên ngang qua Quang âm thiên tánh, không thể lãnh thọ Biến tịnh thiên ngang qua Biến tịnh thiên tánh, không thể lãnh thọ Quảng quả thiên ngang qua Quảng quả thiên tánh, không thể lãnh thọ Abhibhu (Thắng giả) ngang qua Abhibhu tánh, không thể lãnh thọ nhứt thiết ngang qua nhứt thiết tánh.
Viññāṇaṁ anidassanaṁ anantaṁ sabbato pabhaṁ, taṁ pathaviyā pathavattena ananubhūtaṁ, āpassa āpattena ananubhūtaṁ, tejassa tejattena ananubhūtaṁ, vāyassa vāyattena ananubhūtaṁ, bhūtānaṁ bhūtattena ananubhūtaṁ, devānaṁ devattena ananubhūtaṁ, pajāpatissa pajāpatittena ananubhūtaṁ, brahmānaṁ brahmattena ananubhūtaṁ, ābhassarānaṁ ābhassarattena ananubhūtaṁ, subhakiṇhānaṁ subhakiṇhattena ananubhūtaṁ, vehapphalānaṁ vehapphalattena ananubhūtaṁ, abhibhussa abhibhuttena ananubhūtaṁ, sabbassa sabbattena ananubhūtaṁ.
Này Tôn giả, nay ta sẽ biến mất trước mặt Tôn giả.’
Handa carahi te, mārisa, passa antaradhāyāmī’ti.
‘Này Phạm thiên, hãy biến đi trước mặt Ta, nếu Ông có thể biến được.’
‘Handa carahi me tvaṁ, brahme, antaradhāyassu, sace visahasī’ti.
Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka nói:
Atha kho, bhikkhave, bako brahmā:
Ta sẽ biến mất trước mặt Sa-môn Gotama. Ta sẽ biến mất trước Sa-môn Gotama. Nhưng Phạm thiên Baka không biến mất trước mặt Ta.
‘antaradhāyissāmi samaṇassa gotamassa, antaradhāyissāmi samaṇassa gotamassā’ti nevassu me sakkoti antaradhāyituṁ.
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy, Ta nói với Phạm thiên Baka:
Evaṁ vutte, ahaṁ, bhikkhave, bakaṁ brahmānaṁ etadavocaṁ:
‘Này Phạm thiên, Ta sẽ biến mất trước mặt Ông.’
‘handa carahi te brahme antaradhāyāmī’ti.
‘Này Tôn giả, Tôn giả hãy biến đi trước mặt Ta, nếu Tôn giả có thể biến được.’
‘Handa carahi me tvaṁ, mārisa, antaradhāyassu sace visahasī’ti.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta thực hiện thần thông như sau:
Atha kho ahaṁ, bhikkhave, tathārūpaṁ iddhābhisaṅkhāraṁ abhisaṅkhāsiṁ:
“Hãy để cho Phạm thiên, Phạm thiên chúng và Phạm thiên quyến thuộc nghe tiếng Ta chớ không thấy Ta”,
‘ettāvatā brahmā ca brahmaparisā ca brahmapārisajjā ca saddañca me sossanti, na ca maṁ dakkhantī’ti.
Ta biến mất và nói lên bài kệ như sau:
Antarahito imaṁ gāthaṁ abhāsiṁ:
“Thấy nguy hiểm trong hữu,
Từ hữu rồi phi hữu,
Ta không tôn trọng hữu,
Không hỷ, không chấp trước”.
‘Bhavevāhaṁ bhayaṁ disvā,
bhavañca vibhavesinaṁ;
Bhavaṁ nābhivadiṁ kiñci,
nandiñca na upādiyin’ti.
Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên, Phạm thiên chúng và Phạm thiên quyến thuộc, tâm sanh vi diệu hy hữu, nói lên như sau:
Atha kho, bhikkhave, brahmā ca brahmaparisā ca brahmapārisajjā ca acchariyabbhutacittajātā ahesuṁ:
“Thật vi diệu thay, chư Tôn giả! Thật hy hữu thay, chư Tôn giả!
‘acchariyaṁ vata bho, abbhutaṁ vata bho.
Ðại thần lực, đại uy lực của Sa-môn Gotama. Thật sự từ trước đến nay chưa từng thấy, chưa từng nghe một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có được đại thần lực, đại uy lực như Sa-môn Gotama, là Thích Tử, xuất gia từ giòng họ Sakya.
Samaṇassa gotamassa mahiddhikatā mahānubhāvatā, na ca vata no ito pubbe diṭṭho vā, suto vā, añño samaṇo vā brāhmaṇo vā evaṁ mahiddhiko evaṁ mahānubhāvo yathāyaṁ samaṇo gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito.
Ðối với quần chúng ái trước hữu, lạc nhiễm, hoan hỷ đối với hữu (Sa-môn Gotama) đã nhổ hữu lên tận cả gốc rễ!”
Bhavarāmāya vata, bho, pajāya bhavaratāya bhavasammuditāya samūlaṁ bhavaṁ udabbahī’ti.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ác ma sau khi nhập vào một trong Phạm thiên quyến thuộc đã nói với Ta như sau:
Atha kho, bhikkhave, māro pāpimā aññataraṁ brahmapārisajjaṁ anvāvisitvā maṁ etadavoca:
‘Này Tôn giả, nếu Ông biết như vậy, giác ngộ như vậy, chớ có hướng dẫn đệ tử, chớ có hướng dẫn các vị xuất gia,
‘sace kho tvaṁ, mārisa, evaṁ pajānāsi, sace tvaṁ evaṁ anubuddho, mā sāvake upanesi, mā pabbajite;
chớ có thuyết pháp cho các đệ tử, chớ có thuyết pháp cho các vị xuất gia,
mā sāvakānaṁ dhammaṁ desesi, mā pabbajitānaṁ;
chớ có ái luyến đệ tử, chớ có ái luyến các vị xuất gia.
mā sāvakesu gedhimakāsi, mā pabbajitesu.
Này Tỷ-kheo, trước Ông đã có những vị Sa-môn, Bà-la-môn ở đời tự xưng là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
Ahesuṁ kho, bhikkhu, tayā pubbe samaṇabrāhmaṇā lokasmiṁ arahanto sammāsambuddhā paṭijānamānā.
Những vị này hướng dẫn đệ tử, hướng dẫn các vị xuất gia, thuyết pháp cho các đệ tử, thuyết pháp cho các vị xuất gia, ái luyến các đệ tử, ái luyến các vị xuất gia. Sau khi hướng dẫn các đệ tử, các vị xuất gia, sau khi thuyết pháp cho các đệ tử, các vị xuất gia, sau khi ái luyến các đệ tử, các vị xuất gia, khi thân hoại, mạng sống bị cắt đứt, những vị này bị an trú trong các thân hạ liệt.
Te sāvake upanesuṁ pabbajite, sāvakānaṁ dhammaṁ desesuṁ pabbajitānaṁ, sāvakesu gedhimakaṁsu pabbajitesu, te sāvake upanetvā pabbajite, sāvakānaṁ dhammaṁ desetvā pabbajitānaṁ, sāvakesu gedhitacittā pabbajitesu, kāyassa bhedā pāṇupacchedā hīne kāye patiṭṭhitā.
Này Tỷ-kheo, trước Ông đã có những vị Sa-môn, Bà-la-môn ở đời, tự xưng là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
Ahesuṁ ye pana, bhikkhu, tayā pubbe samaṇabrāhmaṇā lokasmiṁ arahanto sammāsambuddhā paṭijānamānā.
Những vị này không hướng dẫn đệ tử, không hướng dẫn các vị xuất gia, không thuyết pháp cho đệ tử, không thuyết pháp cho các vị xuất gia, không ái luyến các đệ tử, không ái luyến các vị xuất gia. Sau khi không hướng dẫn các đệ tử, không hướng dẫn các vị xuất gia, không thuyết pháp cho các đệ tử, không thuyết pháp cho các vị xuất gia, không ái luyến các đệ tử, không ái luyến các vị xuất gia, khi thân hoại, mạng sống bị cắt đứt, các vị này được an trú trong thân vi diệu.
Te na sāvake upanesuṁ na pabbajite, na sāvakānaṁ dhammaṁ desesuṁ na pabbajitānaṁ, na sāvakesu gedhimakaṁsu na pabbajitesu, te na sāvake upanetvā na pabbajite, na sāvakānaṁ dhammaṁ desetvā na pabbajitānaṁ, na sāvakesu gedhitacittā na pabbajitesu, kāyassa bhedā pāṇupacchedā paṇīte kāye patiṭṭhitā.
Này Tỷ-kheo, ta nói với Ông như sau:
Taṁ tāhaṁ, bhikkhu, evaṁ vadāmi—
“Này Tôn giả, chớ có phiền lao cực nhọc, hãy sống lạc trú hiện tại. Này Tôn giả, chớ có nêu rõ việc thiện. Này Tôn giả, chớ có giảng dạy cho người khác!”
iṅgha tvaṁ, mārisa, appossukko diṭṭhadhammasukhavihāramanuyutto viharassu, anakkhātaṁ kusalañhi, mārisa, mā paraṁ ovadāhī’ti.
Này các Tỷ-kheo khi nghe nói vậy, Ta nói với Ác ma như sau:
Evaṁ vutte, ahaṁ, bhikkhave, māraṁ pāpimantaṁ etadavocaṁ:
Này Ác ma, Ta biết Ngươi! Ngươi chớ có nghĩ rằng:
‘jānāmi kho tāhaṁ, pāpima, mā tvaṁ maññittho:
“Vị ấy không biết ta”.
“na maṁ jānātī”ti.
Này Ác ma, Ngươi là Ác ma! Ngươi là Ác ma!
Māro tvamasi, pāpima.
Này Ác ma, Ngươi nói như vậy không phải vì lòng thương tưởng đối với Ta.
Na maṁ tvaṁ, pāpima, hitānukampī evaṁ vadesi;
Này Ác ma, Ngươi nói như vậy vì không có lòng thương tưởng đối với Ta.
ahitānukampī maṁ tvaṁ, pāpima, evaṁ vadesi.
Này Ác ma, Ngươi nghĩ như sau:
Tuyhañhi, pāpima, evaṁ hoti:
“Những ai được Sa-môn Gotama thuyết pháp, những người ấy sẽ thoát ra ngoài tầm tay ảnh hưởng của ta”.
“yesaṁ samaṇo gotamo dhammaṁ desessati, te me visayaṁ upātivattissantī”ti.
Này Ác ma, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy không phải Chánh Ðẳng Giác, nhưng tự xưng là:
Asammāsambuddhāva pana te, pāpima, samānā sammāsambuddhāmhāti paṭijāniṁsu.
“Chúng ta là Chánh Ðẳng Giác”. Này Ác ma, Ta là Chánh Ðẳng Giác và Ta tự xưng Ta là Chánh Ðẳng Giác.
Ahaṁ kho pana, pāpima, sammāsambuddhova samāno sammāsambuddhomhīti paṭijānāmi.
Này Ác ma, Như Lai có thuyết pháp cho đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai. Này Ác ma, Như Lai không thuyết pháp cho các đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai.
Desentopi hi, pāpima, tathāgato sāvakānaṁ dhammaṁ tādisova adesentopi hi, pāpima, tathāgato sāvakānaṁ dhammaṁ tādisova.
Này Ác ma, Như Lai có hướng dẫn cho các đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai. Này Ác ma, Như Lai không hướng dẫn cho các đệ tử, Như Lai cũng vẫn là Như Lai.
Upanentopi hi, pāpima, tathāgato sāvake tādisova, anupanentopi hi, pāpima, tathāgato sāvake tādisova.
Vì sao vậy?
Taṁ kissa hetu?
Này Ác ma, đối với Như Lai, các lậu hoặc tương ưng với phiền não, đưa đến tái sanh, gây nên phiền lụy, đem đến quả khổ dị thục; đưa đến sanh, già, chết trong tương lai;
Tathāgatassa, pāpima, ye āsavā saṅkilesikā ponobbhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṁ jātijarāmaraṇiyā—
các lậu hoặc ấy đã được diệt trừ, được cắt đứt tận gốc, được làm như thân cây Tala, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
te pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṁ anuppādadhammā.
Này Ác ma, ví như cây tala, dầu thân cây này bị chặt dứt, khiến không thể lớn lên được;
Seyyathāpi, pāpima, tālo matthakacchinno abhabbo puna virūḷhiyā;
cũng vậy, này Ác ma, đối với Như Lai, các lậu hoặc tương ứng với phiền não, đưa đến tái sanh, gây nên phiền lụy, đem đến quả khổ dị thục, đưa đến sanh, già, chết trong tương lai;
evameva kho, pāpima, tathāgatassa ye āsavā saṅkilesikā ponobbhavikā sadarā dukkhavipākā āyatiṁ jātijarāmaraṇiyā—
các lậu hoặc ấy đã được diệt trừ, được cắt đứt tận gốc, được làm như thân cây tala, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.’”
te pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṁ anuppādadhammā’ti.
Như vậy, vì Ác ma đã thất bại, không thể thuyết phục (Ta), vì có lời mời Phạm thiên, nên bài trả lời này cũng được gọi là Kinh Phạm Thiên Cầu Thỉnh”.
Iti hidaṁ mārassa ca anālapanatāya brahmuno ca abhinimantanatāya, tasmā imassa veyyākaraṇassa brahmanimantanikantveva adhivacanan”ti.
Brahmanimantanikasuttaṁ niṭṭhitaṁ navamaṁ.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt