Trung Bộ 148
Majjhima Nikāya 148
Kinh Sáu Sáu
Chachakkasutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm) tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp-Cô-Ðộc).
ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”.
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi: “bhikkhavo”ti.
“Thưa vâng, Bạch Thế Tôn”. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
“Bhadante”ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṁ. Bhagavā etadavoca:
“Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Ta sẽ nói lên Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, thanh tịnh, tức là
“dhammaṁ vo, bhikkhave, desessāmi ādikalyāṇaṁ majjhekalyāṇaṁ pariyosānakalyāṇaṁ sātthaṁ sabyañjanaṁ, kevalaparipuṇṇaṁ parisuddhaṁ brahmacariyaṁ pakāsessāmi, yadidaṁ—
sáu đến sáu.
cha chakkāni.
Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.”
Taṁ suṇātha, sādhukaṁ manasi karotha, bhāsissāmī”ti.
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
“Evaṁ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṁ. Bhagavā etadavoca:
“Sáu nội xứ cần phải được biết. Sáu ngoại xứ cần phải được biết. Sáu thức thân cần phải được biết. Sáu xúc thân cần phải được biết. Sáu thọ thân cần phải được biết. Sáu ái thân cần phải được biết.
“Cha ajjhattikāni āyatanāni veditabbāni, cha bāhirāni āyatanāni veditabbāni, cha viññāṇakāyā veditabbā, cha phassakāyā veditabbā, cha vedanākāyā veditabbā, cha taṇhākāyā veditabbā.
Khi được nói đến: ‘Sáu nội xứ cần phải được biết’, do duyên gì được nói đến như vậy?
‘Cha ajjhattikāni āyatanāni veditabbānī’ti—iti kho panetaṁ vuttaṁ. Kiñcetaṁ paṭicca vuttaṁ?
Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ.
Cakkhāyatanaṁ, sotāyatanaṁ, ghānāyatanaṁ, jivhāyatanaṁ, kāyāyatanaṁ, manāyatanaṁ.
Khi được nói đến: ‘Sáu nội xứ cần phải được biết’, chính do duyên này được nói đến như vậy.
‘Cha ajjhattikāni āyatanāni veditabbānī’ti—iti yaṁ taṁ vuttaṁ, idametaṁ paṭicca vuttaṁ.
Ðây là sáu sáu thứ nhất.
Idaṁ paṭhamaṁ chakkaṁ.
Khi được nói đến: ‘Sáu ngoại xứ cần phải được biết’, do duyên gì được nói đến như vậy?
‘Cha bāhirāni āyatanāni veditabbānī’ti—iti kho panetaṁ vuttaṁ. Kiñcetaṁ paṭicca vuttaṁ?
Sắc xứ, thanh xứ, hương xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ.
Rūpāyatanaṁ, saddāyatanaṁ, gandhāyatanaṁ, rasāyatanaṁ, phoṭṭhabbāyatanaṁ, dhammāyatanaṁ.
Khi được nói đến: ‘Sáu ngoại xứ cần phải được biết’, chính do duyên này được nói đến như vậy.
‘Cha bāhirāni āyatanāni veditabbānī’ti—iti yaṁ taṁ vuttaṁ, idametaṁ paṭicca vuttaṁ.
Ðây là sáu sáu thứ hai.
Idaṁ dutiyaṁ chakkaṁ.
Khi được nói đến: ‘Sáu thức thân cần phải được biết’, do duyên gì được nói đến như vậy?
‘Cha viññāṇakāyā veditabbā’ti—iti kho panetaṁ vuttaṁ. Kiñcetaṁ paṭicca vuttaṁ?
Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức.
Cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇaṁ,
Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức.
sotañca paṭicca sadde ca uppajjati sotaviññāṇaṁ,
Do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức.
ghānañca paṭicca gandhe ca uppajjati ghānaviññāṇaṁ,
Do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức.
jivhañca paṭicca rase ca uppajjati jivhāviññāṇaṁ,
Do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức.
kāyañca paṭicca phoṭṭhabbe ca uppajjati kāyaviññāṇaṁ,
Do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức.
manañca paṭicca dhamme ca uppajjati manoviññāṇaṁ.
Khi được nói đến: ‘Sáu thức thân cần phải được biết’, chính do duyên này được nói đến như vậy.
‘Cha viññāṇakāyā veditabbā’ti—iti yaṁ taṁ vuttaṁ, idametaṁ paṭicca vuttaṁ.
Ðây là sáu sáu thứ ba.
Idaṁ tatiyaṁ chakkaṁ.
Khi được nói đến: ‘Sáu xúc thân cần phải được biết’, do duyên gì được nói đến như vậy?
‘Cha phassakāyā veditabbā’ti—iti kho panetaṁ vuttaṁ. Kiñcetaṁ paṭicca vuttaṁ?
Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc.
Cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso;
Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc.
sotañca paṭicca sadde ca uppajjati sotaviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso;
Do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc.
ghānañca paṭicca gandhe ca uppajjati ghānaviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso;
Do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc.
jivhañca paṭicca rase ca uppajjati jivhāviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso;
Do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc.
kāyañca paṭicca phoṭṭhabbe ca uppajjati kāyaviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso;
Do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc.
manañca paṭicca dhamme ca uppajjati manoviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso.
Khi được nói đến: ‘Sáu xúc thân cần phải được biết’, chính do duyên này được nói đến như vậy.
‘Cha phassakāyā veditabbā’ti—iti yaṁ taṁ vuttaṁ, idametaṁ paṭicca vuttaṁ.
Ðây là sáu sáu thứ tư.
Idaṁ catutthaṁ chakkaṁ.
Khi được nói đến: ‘Sáu thọ thân cần phải được biết’, do duyên gì được nói đến như vậy?
‘Cha vedanākāyā veditabbā’ti—iti kho panetaṁ vuttaṁ. Kiñcetaṁ paṭicca vuttaṁ?
Do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ.
Cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso, phassapaccayā vedanā;
Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức…
sotañca paṭicca sadde ca uppajjati sotaviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso, phassapaccayā vedanā;
Do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức…
ghānañca paṭicca gandhe ca uppajjati ghānaviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso, phassapaccayā vedanā;
Do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức…
jivhañca paṭicca rase ca uppajjati jivhāviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso, phassapaccayā vedanā;
Do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức…
kāyañca paṭicca phoṭṭhabbe ca uppajjati kāyaviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso, phassapaccayā vedanā;
Do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ.
manañca paṭicca dhamme ca uppajjati manoviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso, phassapaccayā vedanā.
Khi được nói đến: ‘Sáu thọ thân cần phải được biết’, chính do duyên này được nói đến như vậy.
‘Cha vedanākāyā veditabbā’ti—iti yaṁ taṁ vuttaṁ, idametaṁ paṭicca vuttaṁ.
Ðây là sáu sáu thứ năm.
Idaṁ pañcamaṁ chakkaṁ.
Khi được nói đến: ‘Sáu ái thân cần phải được biết’, do duyên gì được nói đến như vậy?
‘Cha taṇhākāyā veditabbā’ti—iti kho panetaṁ vuttaṁ. Kiñcetaṁ paṭicca vuttaṁ?
Do duyên mắt và duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái.
Cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso, phassapaccayā vedanā, vedanāpaccayā taṇhā;
Do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức…
sotañca paṭicca sadde ca uppajjati sotaviññāṇaṁ …pe…
Do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức…
ghānañca paṭicca gandhe ca uppajjati ghānaviññāṇaṁ …
Do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức…
jivhañca paṭicca rase ca uppajjati jivhāviññāṇaṁ …
Do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức…
kāyañca paṭicca phoṭṭhabbe ca uppajjati kāyaviññāṇaṁ …
Do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc là thọ. Do duyên thọ là ái.
manañca paṭicca dhamme ca uppajjati manoviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso, phassapaccayā vedanā, vedanāpaccayā taṇhā.
Khi được nói đến: ‘Sáu ái thân cần phải được biết’, chính do duyên này được nói đến như vậy.
‘Cha taṇhākāyā veditabbā’ti—iti yaṁ taṁ vuttaṁ, idametaṁ paṭicca vuttaṁ.
Ðây là sáu sáu thứ sáu.
Idaṁ chaṭṭhaṁ chakkaṁ.
Nếu ai nói rằng: ‘Mắt là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
‘Cakkhu attā’ti yo vadeyya taṁ na upapajjati.
Sự sanh và sự diệt của mắt đã được thấy.
Cakkhussa uppādopi vayopi paññāyati.
Vì rằng sự sanh và sự diệt củ mắt đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: ‘Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi’.
Yassa kho pana uppādopi vayopi paññāyati, ‘attā me uppajjati ca veti cā’ti iccassa evamāgataṁ hoti.
Do vậy, nếu ai nói rằng: ‘Mắt là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
Tasmā taṁ na upapajjati: ‘cakkhu attā’ti yo vadeyya.
Như vậy, con mắt là vô ngã.
Iti cakkhu anattā.
Nếu ai nói rằng: ‘Các sắc là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
‘Rūpā attā’ti yo vadeyya taṁ na upapajjati.
Sự sanh và sự diệt của các sắc đã được thấy.
Rūpānaṁ uppādopi vayopi paññāyati.
Vì rằng sự sanh và sự diệt của các sắc đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: ‘Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi’.
Yassa kho pana uppādopi vayopi paññāyati, ‘attā me uppajjati ca veti cā’ti iccassa evamāgataṁ hoti.
Do vậy, nếu ai nói rằng: ‘Các sắc là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
Tasmā taṁ na upapajjati: ‘rūpā attā’ti yo vadeyya.
Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã.
Iti cakkhu anattā, rūpā anattā.
Nếu ai nói rằng: ‘Nhãn thức là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
‘Cakkhuviññāṇaṁ attā’ti yo vadeyya taṁ na upapajjati.
Sự sanh và sự diệt của nhãn thức đã được thấy.
Cakkhuviññāṇassa uppādopi vayopi paññāyati.
Vì rằng sự sanh và sự diệt của nhãn thức đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: ‘Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi’.
Yassa kho pana uppādopi vayopi paññāyati, ‘attā me uppajjati ca veti cā’ti iccassa evamāgataṁ hoti.
Do vậy, nếu ai nói rằng: ‘Nhãn thức là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
Tasmā taṁ na upapajjati: ‘cakkhuviññāṇaṁ attā’ti yo vadeyya.
Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã, nhãn thức là vô ngã.
Iti cakkhu anattā, rūpā anattā, cakkhuviññāṇaṁ anattā.
Nếu có ai nói rằng: ‘Nhãn xúc là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
‘Cakkhusamphasso attā’ti yo vadeyya taṁ na upapajjati.
Sự sanh và sự diệt của nhãn xúc đã được thấy.
Cakkhusamphassassa uppādopi vayopi paññāyati.
Vì rằng sự sanh và sự diệt của nhãn xúc đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: ‘Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi’.
Yassa kho pana uppādopi vayopi paññāyati, ‘attā me uppajjati ca veti cā’ti iccassa evamāgataṁ hoti.
Do vậy, nếu ai nói rằng: ‘Nhãn xúc là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
Tasmā taṁ na upapajjati: ‘cakkhusamphasso attā’ti yo vadeyya.
Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã, nhãn thức là vô ngã, nhãn xúc là vô ngã.
Iti cakkhu anattā, rūpā anattā, cakkhuviññāṇaṁ anattā, cakkhusamphasso anattā.
Nếu có ai nói rằng: ‘Thọ là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
‘Vedanā attā’ti yo vadeyya taṁ na upapajjati.
Sự sanh và sự diệt của thọ đã được thấy.
Vedanāya uppādopi vayopi paññāyati.
Vì rằng sự sanh và sự diệt của thọ đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: ‘Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi’.
Yassa kho pana uppādopi vayopi paññāyati, ‘attā me uppajjati ca veti cā’ti iccassa evamāgataṁ hoti.
Do vậy, nếu ai nói rằng: ‘Thọ là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
Tasmā taṁ na upapajjati: ‘vedanā attā’ti yo vadeyya.
Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã, nhãn thức là vô ngã, nhãn xúc là vô ngã, thọ là vô ngã.
Iti cakkhu anattā, rūpā anattā, cakkhuviññāṇaṁ anattā, cakkhusamphasso anattā, vedanā anattā.
Nếu có ai nói rằng: ‘Ái là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
‘Taṇhā attā’ti yo vadeyya taṁ na upapajjati.
Sự sanh và sự diệt của ái đã được thấy.
Taṇhāya uppādopi vayopi paññāyati.
Vì rằng sự sanh và sự diệt của ái đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: ‘Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi’.
Yassa kho pana uppādopi vayopi paññāyati, ‘attā me uppajjati ca veti cā’ti iccassa evamāgataṁ hoti.
Do vậy, nếu ai nói rằng: ‘Ái là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
Tasmā taṁ na upapajjati: ‘taṇhā attā’ti yo vadeyya.
Như vậy, con mắt là vô ngã, các sắc là vô ngã, nhãn thức là vô ngã, nhãn xúc là vô ngã, thọ là vô ngã, ái là vô ngã.
Iti cakkhu anattā, rūpā anattā, cakkhuviññāṇaṁ anattā, cakkhusamphasso anattā, vedanā anattā, taṇhā anattā.
Nếu có ai nói rằng: ‘Tai là tự ngã’…;
‘Sotaṁ attā’ti yo vadeyya …pe…
nếu có ai nói rằng: ‘Mũi là tự ngã’…;
‘ghānaṁ attā’ti yo vadeyya …pe…
nếu có ai nói rằng: ‘Lưỡi là tự ngã’…;
‘jivhā attā’ti yo vadeyya …pe…
nếu có ai nói rằng: ‘Thân là tự ngã’…;
‘kāyo attā’ti yo vadeyya …pe…
nếu có ai nói rằng: ‘Ý là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
‘mano attā’ti yo vadeyya taṁ na upapajjati.
Sự sanh và sự diệt của ý đã được thấy.
Manassa uppādopi vayopi paññāyati.
Vì rằng sự sanh và sự diệt của ý đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: ‘Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi’.
Yassa kho pana uppādopi vayopi paññāyati, ‘attā me uppajjati ca veti cā’ti iccassa evamāgataṁ hoti.
Do vậy, nếu ai nói rằng: ‘Ý là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
Tasmā taṁ na upapajjati: ‘mano attā’ti yo vadeyya.
Như vậy, ý là vô ngã.
Iti mano anattā.
Nếu có ai nói rằng: ‘Các pháp là tự ngã’, như vậy, là không hợp lý.
‘Dhammā attā’ti yo vadeyya taṁ na upapajjati.
Sự sanh và sự diệt của các pháp đã được thấy.
Dhammānaṁ uppādopi vayopi paññāyati.
Vì rằng sự sanh và sự diệt của các pháp đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: ‘Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi’.
Yassa kho pana uppādopi vayopi paññāyati, ‘attā me uppajjati ca veti cā’ti iccassa evamāgataṁ hoti.
Do vậy, nếu ai nói rằng: ‘Các pháp là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
Tasmā taṁ na upapajjati: ‘dhammā attā’ti yo vadeyya.
Như vậy, ý là vô ngã, các pháp là vô ngã.
Iti mano anattā, dhammā anattā.
Nếu có ai nói rằng: ‘Ý thức là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
‘Manoviññāṇaṁ attā’ti yo vadeyya taṁ na upapajjati.
Sự sanh và sự diệt của ý thức đã được thấy.
Manoviññāṇassa uppādopi vayopi paññāyati.
Vì rằng sự sanh và sự diệt của ý thức đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: ‘Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi’.
Yassa kho pana uppādopi vayopi paññāyati, ‘attā me uppajjati ca veti cā’ti iccassa evamāgataṁ hoti.
Do vậy, nếu ai nói rằng: ‘Ý thức là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
Tasmā taṁ na upapajjati: ‘manoviññāṇaṁ attā’ti yo vadeyya.
Như vậy, ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã.
Iti mano anattā, dhammā anattā, manoviññāṇaṁ anattā.
Nếu có ai nói rằng: ‘Ý xúc là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
‘Manosamphasso attā’ti yo vadeyya taṁ na upapajjati.
Sự sanh và sự diệt của ý xúc đã được thấy.
Manosamphassassa uppādopi vayopi paññāyati.
Vì rằng sự sanh và sự diệt của ý xúc đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: ‘Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi’.
Yassa kho pana uppādopi vayopi paññāyati, ‘attā me uppajjati ca veti cā’ti iccassa evamāgataṁ hoti.
Do vậy, nếu có ai nói rằng: ‘Ý xúc là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
Tasmā taṁ na upapajjati: ‘manosamphasso attā’ti yo vadeyya.
Như vậy, ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã, ý xúc là vô ngã.
Iti mano anattā, dhammā anattā, manoviññāṇaṁ anattā, manosamphasso anattā.
Nếu có ai nói rằng: ‘Thọ là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
‘Vedanā attā’ti yo vadeyya taṁ na upapajjati.
Sự sanh và sự diệt của thọ đã dược thấy.
Vedanāya uppādopi vayopi paññāyati.
Vì rằng sự sanh và sự diệt của thọ đã được thấy, nên đưa phải đưa đến kết luận: ‘Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi’.
Yassa kho pana uppādopi vayopi paññāyati, ‘attā me uppajjati ca veti cā’ti iccassa evamāgataṁ hoti.
Do vậy, nếu có ai nói rằng: ‘Thọ là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
Tasmā taṁ na upapajjati: ‘vedanā attā’ti yo vadeyya.
Như vậy, ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã, ý xúc là vô ngã, thọ là vô ngã.
Iti mano anattā, dhammā anattā, manoviññāṇaṁ anattā, manosamphasso anattā, vedanā anattā.
Nếu có ai nói rằng: ‘Ái là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
‘Taṇhā attā’ti yo vadeyya taṁ na upapajjati.
Sự sanh và sự diệt của ái đã được thấy.
Taṇhāya uppādopi vayopi paññāyati.
Vì rằng sự sanh và sự diệt của ái đã được thấy, nên phải đưa đến kết luận: ‘Tự ngã sanh và diệt ở nơi tôi’.
Yassa kho pana uppādopi vayopi paññāyati, ‘attā me uppajjati ca veti cā’ti iccassa evamāgataṁ hoti.
Do vậy, nếu có ai nói rằng: ‘Ái là tự ngã’, như vậy là không hợp lý.
Tasmā taṁ na upapajjati: ‘taṇhā attā’ti yo vadeyya.
Như vậy, ý là vô ngã, các pháp là vô ngã, ý thức là vô ngã, ý xúc là vô ngã, thọ là vô ngã, ái là vô ngã.
Iti mano anattā, dhammā anattā, manoviññāṇaṁ anattā, manosamphasso anattā, vedanā anattā, taṇhā anattā.
Này các Tỷ-kheo, nhưng đây là con đường đưa đến sự tập khởi của thân kiến.
Ayaṁ kho pana, bhikkhave, sakkāyasamudayagāminī paṭipadā—
Ai quán mắt là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’.
cakkhuṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati;
Ai quán các sắc: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’.
rūpe ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati;
Ai quán nhãn thức: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’.
cakkhuviññāṇaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati;
Ai quán nhãn xúc: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’.
cakkhusamphassaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati;
Ai quán thọ: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’.
vedanaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati;
Ai quán ái: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’.
taṇhaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati;
Ai quán tai: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’.
sotaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati …pe…
Ai quán mũi: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’.
ghānaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati …pe…
Ai quán lưỡi: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’.
jivhaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati …pe…
Ai quán thân: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’.
kāyaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati …pe…
Ai quán ý… Ai quán các pháp… Ai quán ý thức… Ai quán ý xúc… Ai quán ái: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’.
manaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati, dhamme ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati, manoviññāṇaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati, manosamphassaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati, vedanaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati, taṇhaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati.
Nhưng này các Tỷ-kheo, đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt của thân kiến.
Ayaṁ kho pana, bhikkhave, sakkāyanirodhagāminī paṭipadā—
Ai quán mắt: ‘Cái này không phải là của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi’.
cakkhuṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Ai quán sắc: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
Rūpe ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Ai quán nhãn thức: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
Cakkhuviññāṇaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Ai quán nhãn xúc: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
Cakkhusamphassaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Ai quán thọ: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
Vedanaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Ai quán ái: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
Taṇhaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Ai quán tai: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
Sotaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati …pe…
Ai quán mũi: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
ghānaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati …pe…
Ai quán lưỡi: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
jivhaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati …pe…
Ai quán thân: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
kāyaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati …pe…
Ai quán ý: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
manaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Ai quán các pháp: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
Dhamme ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Ai quán ý thức: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
Manoviññāṇaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Ai quán ý xúc: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
Manosamphassaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Ai quán thọ: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
Vedanaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Ai quán ái: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
Taṇhaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Này các Tỷ-kheo, do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ.
Cakkhuñca, bhikkhave, paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso, phassapaccayā uppajjati vedayitaṁ sukhaṁ vā dukkhaṁ vā adukkhamasukhaṁ vā.
Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy tùy tăng.
So sukhāya vedanāya phuṭṭho samāno abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati. Tassa rāgānusayo anuseti.
Vị ấy do cảm xúc khổ thọ, mà sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy tùy tăng.
Dukkhāya vedanāya phuṭṭho samāno socati kilamati paridevati urattāḷiṁ kandati sammohaṁ āpajjati. Tassa paṭighānusayo anuseti.
Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng.
Adukkhamasukhāya vedanāya phuṭṭho samāno tassā vedanāya samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṁ nappajānāti. Tassa avijjānusayo anuseti.
Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.
So vata, bhikkhave, sukhāya vedanāya rāgānusayaṁ appahāya dukkhāya vedanāya paṭighānusayaṁ appaṭivinodetvā adukkhamasukhāya vedanāya avijjānusayaṁ asamūhanitvā avijjaṁ appahāya vijjaṁ anuppādetvā diṭṭheva dhamme dukkhassantakaro bhavissatīti—netaṁ ṭhānaṁ vijjati.
Này các Tỷ-kheo, do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức…
Sotañca, bhikkhave, paṭicca sadde ca uppajjati sotaviññāṇaṁ …pe…
Này các Tỷ-kheo, do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức…
ghānañca, bhikkhave, paṭicca gandhe ca uppajjati ghānaviññāṇaṁ …pe…
Này các Tỷ-kheo, do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức…
jivhañca, bhikkhave, paṭicca rase ca uppajjati jivhāviññāṇaṁ …pe…
Này các Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức…
kāyañca, bhikkhave, paṭicca phoṭṭhabbe ca uppajjati kāyaviññāṇaṁ …pe…
Này các Tỷ-kheo, do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ.
manañca, bhikkhave, paṭicca dhamme ca uppajjati manoviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso, phassapaccayā uppajjati vedayitaṁ sukhaṁ vā dukkhaṁ vā adukkhamasukhaṁ vā.
Vị ấy do cảm xúc lạc thọ, mà hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy tùy tăng.
So sukhāya vedanāya phuṭṭho samāno abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati. Tassa rāgānusayo anuseti.
Vị ấy do cảm xúc khổ thọ mà sầu muốn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy tùy tăng.
Dukkhāya vedanāya phuṭṭho samāno socati kilamati paridevati urattāḷiṁ kandati sammohaṁ āpajjati. Tassa paṭighānusayo anuseti.
Vị ấy do cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà không như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy tùy tăng.
Adukkhamasukhāya vedanāya phuṭṭho samāno tassā vedanāya samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṁ nappajānāti. Tassa avijjānusayo anuseti.
Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do không tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do không nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không đoạn tận vô minh, không làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy không xảy ra.
So vata, bhikkhave, sukhāya vedanāya rāgānusayaṁ appahāya dukkhāya vedanāya paṭighānusayaṁ appaṭivinodetvā adukkhamasukhāya vedanāya avijjānusayaṁ asamūhanitvā avijjaṁ appahāya vijjaṁ anuppādetvā diṭṭheva dhamme dukkhassantakaro bhavissatīti—netaṁ ṭhānaṁ vijjati.
Này các Tỷ-kheo, do duyên mắt và do duyên các sắc, khởi lên nhãn thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ.
Cakkhuñca, bhikkhave, paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇaṁ, tiṇṇaṁ saṅgati phasso, phassapaccayā uppajjati vedayitaṁ sukhaṁ vā dukkhaṁ vā adukkhamasukhaṁ vā.
Vị ấy cảm xúc lạc thọ, mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng.
So sukhāya vedanāya phuṭṭho samāno nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati. Tassa rāgānusayo nānuseti.
Vị ấy cảm xúc khổ thọ, mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng.
Dukkhāya vedanāya phuṭṭho samāno na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṁ kandati na sammohaṁ āpajjati. Tassa paṭighānusayo nānuseti.
Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ, mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng.
Adukkhamasukhāya vedanāya phuṭṭho samāno tassā vedanāya samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṁ pajānāti. Tassa avijjānusayo nānuseti.
Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra.
So vata, bhikkhave, sukhāya vedanāya rāgānusayaṁ pahāya dukkhāya vedanāya paṭighānusayaṁ paṭivinodetvā adukkhamasukhāya vedanāya avijjānusayaṁ samūhanitvā avijjaṁ pahāya vijjaṁ uppādetvā diṭṭheva dhamme dukkhassantakaro bhavissatīti—ṭhānametaṁ vijjati.
Này các Tỷ-kheo, do duyên tai và do duyên các tiếng, khởi lên nhĩ thức…
Sotañca, bhikkhave, paṭicca sadde ca uppajjati sotaviññāṇaṁ …pe….
Này các Tỷ-kheo, do duyên mũi và do duyên các hương, khởi lên tỷ thức…
Ghānañca, bhikkhave, paṭicca gandhe ca uppajjati ghānaviññāṇaṁ …pe….
Này các Tỷ-kheo, do duyên lưỡi và do duyên các vị, khởi lên thiệt thức…
Jivhañca, bhikkhave, paṭicca rase ca uppajjati jivhāviññāṇaṁ …pe….
Này các Tỷ-kheo, do duyên thân và do duyên các xúc, khởi lên thân thức…
Kāyañca, bhikkhave, paṭicca phoṭṭhabbe ca uppajjati kāyaviññāṇaṁ …pe….
“Này các Tỷ-kheo, do duyên ý và do duyên các pháp, khởi lên ý thức. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên cảm xúc, khởi lên lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ.
“Manañca, bhikkhave, paṭicca dhamme ca uppajjati manoviññāṇaṁ tiṇṇaṁ saṅgati phasso, phassapaccayā uppajjati vedayitaṁ sukhaṁ vā dukkhaṁ vā adukkhamasukhaṁ vā.
Vị ấy cảm xúc lạc thọ mà không hoan hỷ, tán thán, trú ở ái trước; tham tùy miên của vị ấy không tùy tăng.
So sukhāya vedanāya phuṭṭho samāno nābhinandati nābhivadati nājjhosāya tiṭṭhati. Tassa rāgānusayo nānuseti.
Vị ấy cảm xúc khổ thọ mà không sầu muộn, than van, than khóc, đập ngực, rơi vào bất tỉnh; sân tùy miên của vị ấy không tùy tăng.
Dukkhāya vedanāya phuṭṭho samāno na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṁ kandati na sammohaṁ āpajjati. Tassa paṭighānusayo nānuseti.
Vị ấy cảm xúc bất khổ bất lạc thọ mà như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly khỏi cảm thọ ấy; vô minh tùy miên của vị ấy không tùy tăng.
Adukkhamasukhāya vedanāya phuṭṭho samāno tassā vedanāya samudayañca atthaṅgamañca assādañca ādīnavañca nissaraṇañca yathābhūtaṁ pajānāti. Tassa avijjānusayo nānuseti.
Này các Tỷ-kheo, vị ấy chính do đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, do tẩy trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, do nhổ lên vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, đoạn tận vô minh, làm cho minh khởi lên, có thể ngay trong hiện tại là người chấm dứt đau khổ, sự kiện như vậy xảy ra.
So vata, bhikkhave, sukhāya vedanāya rāgānusayaṁ pahāya dukkhāya vedanāya paṭighānusayaṁ paṭivinodetvā adukkhamasukhāya vedanāya avijjānusayaṁ samūhanitvā avijjaṁ pahāya vijjaṁ uppādetvā diṭṭheva dhamme dukkhassantakaro bhavissatīti—ṭhānametaṁ vijjati.
Này các Tỷ-kheo, do thấy vậy, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly mắt, yếm ly các sắc, yếm ly nhãn thức; yếm ly nhãn xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái.
Evaṁ passaṁ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako cakkhusmiṁ nibbindati, rūpesu nibbindati, cakkhuviññāṇe nibbindati, cakkhusamphasse nibbindati, vedanāya nibbindati, taṇhāya nibbindati.
Vị ấy yếm ly tai, yếm ly các tiếng…;
Sotasmiṁ nibbindati, saddesu nibbindati …pe…
yếm ly mũi, yếm ly các hương…;
ghānasmiṁ nibbindati, gandhesu nibbindati …
yếm ly lưỡi, yếm ly các vị…;
jivhāya nibbindati, rasesu nibbindati …
yếm ly thân, yếm ly các xúc…;
kāyasmiṁ nibbindati, phoṭṭhabbesu nibbindati …
yếm ly ý, yếm ly các pháp; yếm ly ý thức, yếm ly ý xúc, yếm ly thọ, yếm ly ái.
manasmiṁ nibbindati, dhammesu nibbindati, manoviññāṇe nibbindati, manosamphasse nibbindati, vedanāya nibbindati, taṇhāya nibbindati.
Do yếm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát là sự hiểu biết: “Ta đã được giải thoát”.
Nibbindaṁ virajjati, virāgā vimuccati. Vimuttasmiṁ vimuttamiti ñāṇaṁ hoti.
Và vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
‘Khīṇā jāti, vusitaṁ brahmacariyaṁ, kataṁ karaṇīyaṁ, nāparaṁ itthattāyā’ti pajānātī”ti.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Idamavoca bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṁ abhinandunti.
Trong khi sự thuyết giảng này được nói lên, tâm của sáu mươi Tỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Imasmiṁ kho pana veyyākaraṇasmiṁ bhaññamāne saṭṭhimattānaṁ bhikkhūnaṁ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṁsūti.
Chachakkasuttaṁ niṭṭhitaṁ chaṭṭhaṁ.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt