Sáng/Tối

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 109

Trung Bộ 109
Majjhima Nikāya 109

Đại Kinh Ngày Trăng Tròn
Mahāpuṇṇamasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—

Một thời Thế Tôn ở tại Sāvatthī (Xá-vệ), Ðông Viên, Lộc Mẫu Giảng đường.
ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati pubbārāme migāramātupāsāde.

Lúc bấy giờ trong ngày Bố-tát, ngày trăng tròn, trong đêm trăng rằm, Thế Tôn đang ngồi giữa trời, xung quanh có chúng Tỷ-kheo đoanh vây.
Tena kho pana samayena bhagavā tadahuposathe pannarase puṇṇāya puṇṇamāya rattiyā bhikkhusaṅghaparivuto abbhokāse nisinno hoti.

Rồi một Tỷ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp y vào một bên vai, chấp tay vái Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
Atha kho aññataro bhikkhu uṭṭhāyāsanā ekaṁsaṁ cīvaraṁ katvā yena bhagavā tenañjaliṁ paṇāmetvā bhagavantaṁ etadavoca:

“Con muốn hỏi Thế Tôn một vấn đề đặc biệt, nếu Thế Tôn cho con được phép nói lên câu hỏi.”
“Puccheyyāhaṁ, bhante, bhagavantaṁ kiñcideva desaṁ, sace me bhagavā okāsaṁ karoti pañhassa veyyākaraṇāyā”ti.

“Vậy này Tỷ-kheo, hãy ngồi trên chỗ của Ông và hỏi như ý Ông muốn.”
“Tena hi tvaṁ, bhikkhu, sake āsane nisīditvā puccha yadākaṅkhasī”ti.

Rồi vị Tỷ-kheo ấy, sau khi ngồi xuống trên chỗ ngồi của mình, bạch Thế Tôn:
Atha kho so bhikkhu sake āsane nisīditvā bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, có phải có năm thủ uẩn này, tức là
“ime nu kho, bhante, pañcupādānakkhandhā, seyyathidaṁ—

sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn và thức thủ uẩn?”
rūpupādānakkhandho, vedanupādānakkhandho, saññupādānakkhandho, saṅkhārupādānakkhandho, viññāṇupādānakkhandho”ti?

“Này Tỷ-kheo, có năm thủ uẩn này, tức là
“Ime kho, bhikkhu, pañcupādānakkhandhā, seyyathidaṁ—

sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.”
rūpupādānakkhandho, vedanupādānakkhandho, saññupādānakkhandho, saṅkhārupādānakkhandho, viññāṇupādānakkhandho”ti.

“Lành thay, bạch Thế Tôn”. Tỷ-kheo ấy sau khi hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn nói, hỏi Thế Tôn một câu hỏi khác:
“Sādhu, bhante”ti kho so bhikkhu bhagavato bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṁ uttariṁ pañhaṁ pucchi:

“Bạch Thế Tôn, năm thủ uẩn này, lấy gì làm căn bản?”
“ime pana, bhante, pañcupādānakkhandhā kiṁmūlakā”ti?

“Này Tỷ-kheo, năm thủ uẩn này lấy dục làm căn bản.”
“Ime kho, bhikkhu, pañcupādānakkhandhā chandamūlakā”ti.

“Bạch Thế Tôn, có phải chính chấp thủ ấy là năm thủ uẩn, hay là ngoài năm thủ uẩn, có một chấp thủ (khác)?”
“Taṁyeva nu kho, bhante, upādānaṁ te pañcupādānakkhandhā, udāhu aññatra pañcahupādānakkhandhehi upādānan”ti?

“Này Tỷ-kheo, không phải chính chấp thủ ấy là năm thủ uẩn, cũng không phải ngoài năm thủ uẩn có sự chấp thủ.
“Na kho, bhikkhu, taṁyeva upādānaṁ te pañcupādānakkhandhā, nāpi aññatra pañcahupādānakkhandhehi upādānaṁ.

Này Tỷ-kheo, khi nào có lòng dục, lòng tham đối với năm thủ uẩn, ở đấy chính là chấp thủ.”
Yo kho, bhikkhu, pañcasu upādānakkhandhesu chandarāgo taṁ tattha upādānan”ti.

“Bạch Thế Tôn, phải chăng có thể có sự sai khác trong lòng dục, lòng tham đối với năm thủ uẩn?”
“Siyā pana, bhante, pañcasu upādānakkhandhesu chandarāgavemattatā”ti?

Thế Tôn trả lời: “Này Tỷ-kheo, có thể có.”
“Siyā, bhikkhū”ti bhagavā avoca

“Ở đây, này Tỷ-kheo có người nghĩ như sau:
“idha, bhikkhu, ekaccassa evaṁ hoti:

‘Mong rằng có sắc như thế này trong tương lai! Mong rằng có thọ như thế này trong tương lai! Mong rằng có tưởng như thế này trong tương lai! Mong rằng có hành như thế này trong tương lai! Mong rằng có thức như thế này trong tương lai!’
‘evaṁrūpo siyaṁ anāgatamaddhānaṁ, evaṁvedano siyaṁ anāgatamaddhānaṁ, evaṁsañño siyaṁ anāgatamaddhānaṁ, evaṁsaṅkhāro siyaṁ anāgatamaddhānaṁ, evaṁviññāṇo siyaṁ anāgatamaddhānan’ti.

Như vậy, này Tỷ-kheo, có sự sai khác trong lòng dục, lòng tham đối với năm uẩn.”
Evaṁ kho, bhikkhu, siyā pañcasu upādānakkhandhesu chandarāgavemattatā”ti.

“Nhưng bạch Thế Tôn, cho đến như thế nào là ý nghĩa chữ uẩn trong các uẩn?”
“Kittāvatā pana, bhante, khandhānaṁ khandhādhivacanaṁ hotī”ti?

“Này Tỷ-kheo, phàm sắc gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là sắc uẩn.
“Yaṁ kiñci, bhikkhu, rūpaṁ—atītānāgatapaccuppannaṁ ajjhattaṁ vā bahiddhā vā, oḷārikaṁ vā sukhumaṁ vā, hīnaṁ vā paṇītaṁ vā, yaṁ dūre santike vā—ayaṁ rūpakkhandho.

Phàm cảm thọ gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là thọ uẩn.
Yā kāci vedanā—atītānāgatapaccuppannā ajjhattaṁ vā bahiddhā vā, oḷārikā vā sukhumā vā, hīnā vā paṇītā vā, yā dūre santike vā—ayaṁ vedanākkhandho.

Phàm tưởng gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại… xa hay gần, như vậy là tưởng uẩn.
Yā kāci saññā—atītānāgatapaccuppannā …pe… yā dūre santike vā—ayaṁ saññākkhandho.

Phàm những hành gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại… xa hay gần, như vậy là hành uẩn.
Ye keci saṅkhārā—atītānāgatapaccuppannā ajjhattaṁ vā bahiddhā vā, oḷārikā vā sukhumā vā, hīnā vā paṇītā vā, ye dūre santike vā—ayaṁ saṅkhārakkhandho.

Phàm thức gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại… xa hay gần, như vậy là thức uẩn.
Yaṁ kiñci viññāṇaṁ—atītānāgatapaccuppannaṁ ajjhattaṁ vā bahiddhā vā, oḷārikaṁ vā sukhumaṁ vā, hīnaṁ vā paṇītaṁ vā, yaṁ dūre santike vā—ayaṁ viññāṇakkhandho.

Cho đến như vậy, này Tỷ-kheo, là ý nghĩa chữ uẩn trong các uẩn.”
Ettāvatā kho, bhikkhu, khandhānaṁ khandhādhivacanaṁ hotī”ti.

“Do nhân gì, bạch Thế Tôn, do duyên gì được chấp nhận gọi là sắc uẩn?
“Ko nu kho, bhante, hetu ko paccayo rūpakkhandhassa paññāpanāya?

Do nhân gì, duyên gì được chấp nhận gọi là thọ uẩn?
Ko hetu ko paccayo vedanākkhandhassa paññāpanāya?

Do nhân gì, duyên gì được chấp nhận gọi là tưởng uẩn?
Ko hetu ko paccayo saññākkhandhassa paññāpanāya?

Do nhân gì, duyên gì được chấp nhận gọi hành uẩn?
Ko hetu ko paccayo saṅkhārakkhandhassa paññāpanāya?

Do nhân gì, duyên gì được chấp nhận gọi là thức uẩn?”
Ko hetu ko paccayo viññāṇakkhandhassa paññāpanāyā”ti?

“Bốn đại là nhân, này Tỷ-kheo, bốn đại là duyên được chấp nhận gọi là sắc uẩn.
“Cattāro kho, bhikkhu, mahābhūtā hetu, cattāro mahābhūtā paccayo rūpakkhandhassa paññāpanāya.

Xúc là nhân, xúc là duyên được chấp nhận gọi là thọ uẩn.
Phasso hetu, phasso paccayo vedanākkhandhassa paññāpanāya.

Xúc là nhân, xúc là duyên được chấp nhận gọi là tưởng uẩn.
Phasso hetu, phasso paccayo saññākkhandhassa paññāpanāya.

Xúc là nhân, xúc là duyên được chấp nhận gọi là hành uẩn.
Phasso hetu, phasso paccayo saṅkhārakkhandhassa paññāpanāya.

Danh sắc là nhân, này Tỷ-kheo, danh sắc là duyên được chấp nhận gọi là thức uẩn.”
Nāmarūpaṁ kho, bhikkhu, hetu, nāmarūpaṁ paccayo viññāṇakkhandhassa paññāpanāyā”ti.

“Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là thân kiến?”
“Kathaṁ pana, bhante, sakkāyadiṭṭhi hotī”ti?

“Ở đây, này Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu không hiểu rõ các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không hiểu rõ các bậc Chơn nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn nhân.
“Idha, bhikkhu, assutavā puthujjano ariyānaṁ adassāvī ariyadhammassa akovido ariyadhamme avinīto sappurisānaṁ adassāvī sappurisadhammassa akovido sappurisadhamme avinīto

xem sắc như là tự ngã, hay xem tự ngã như là có sắc, hay xem sắc như là trong tự ngã, hay xem tự ngã như là trong sắc;
rūpaṁ attato samanupassati rūpavantaṁ vā attānaṁ attani vā rūpaṁ rūpasmiṁ vā attānaṁ;

xem thọ như là tự ngã, hay xem tự ngã như là có thọ, hay xem thọ như là trong tự ngã, hay xem tự ngã như là trong thọ;
vedanaṁ attato samanupassati vedanāvantaṁ vā attānaṁ attani vā vedanaṁ vedanāya vā attānaṁ;

xem tưởng như là tự ngã, hay xem tự ngã như là có tưởng, hay xem tưởng như là trong tự ngã, hay xem tự ngã như là trong trưởng;
saññaṁ attato samanupassati saññāvantaṁ vā attānaṁ attani vā saññaṁ saññāya vā attānaṁ;

xem hành như là tự ngã, hay xem tự ngã như là có hành, hay xem hành như là trong tự ngã, hay xem tự ngã như là trong hành;
saṅkhāre attato samanupassati saṅkhāravantaṁ vā attānaṁ attani vā saṅkhāre saṅkhāresu vā attānaṁ;

xem thức như là tự ngã, hay xem tự ngã như là có thức, hay xem có thức như là trong tự ngã, hay xem tự ngã như là trong thức.
viññāṇaṁ attato samanupassati viññāṇavantaṁ vā attānaṁ attani vā viññāṇaṁ viññāṇasmiṁ vā attānaṁ.

Này các tỷ kheo, như vậy là thân kiến.”
Evaṁ kho, bhikkhu, sakkāyadiṭṭhi hotī”ti.

“Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là không thân kiến?”
“Kathaṁ pana, bhante, sakkāyadiṭṭhi na hotī”ti?

“Ở đây, này Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử, đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chơn nhân, thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, tu tập pháp các bậc Chơn nhân.
“Idha, bhikkhu, sutavā ariyasāvako ariyānaṁ dassāvī ariyadhammassa kovido ariyadhamme suvinīto sappurisānaṁ dassāvī sappurisadhammassa kovido sappurisadhamme suvinīto

không xem sắc như là tự ngã, hay không xem tự ngã như là có sắc, hay không xem sắc như là trong tự ngã, hay không xem tự ngã như là trong sắc;
na rūpaṁ attato samanupassati na rūpavantaṁ vā attānaṁ na attani vā rūpaṁ na rūpasmiṁ vā attānaṁ;

không xem thọ như là tự ngã … không xem tự ngã như là trong thọ;
na vedanaṁ attato samanupassati na vedanāvantaṁ vā attānaṁ na attani vā vedanaṁ na vedanāya vā attānaṁ;

không xem tưởng như là tự ngã … hay không xem tự ngã như là trong tưởng;
na saññaṁ attato samanupassati na saññāvantaṁ vā attānaṁ na attani vā saññaṁ na saññāya vā attānaṁ;

không xem hành như là tự ngã … hay không xem tự ngã như là trong hành;
na saṅkhāre attato samanupassati na saṅkhāravantaṁ vā attānaṁ na attani vā saṅkhāre na saṅkhāresu vā attānaṁ;

không xem thức như là tự ngã … không xem tự ngã như là trong thức.
na viññāṇaṁ attato samanupassati na viññāṇavantaṁ vā attānaṁ na attani vā viññāṇaṁ na viññāṇasmiṁ vā attānaṁ.

Như vậy, này Tỷ-kheo, là không thân kiến.”
Evaṁ kho, bhikkhu, sakkāyadiṭṭhi na hotī”ti.

“Bạch Thế Tôn, cái gì là vị ngọt của sắc, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly?
“Ko nu kho, bhante, rūpe assādo, ko ādīnavo, kiṁ nissaraṇaṁ?

Cái gì là vị ngọt của thọ, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly?
Ko vedanāya assādo, ko ādīnavo, kiṁ nissaraṇaṁ?

Cái gì là vị ngọt của tưởng, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly?
Ko saññāya assādo, ko ādīnavo, kiṁ nissaraṇaṁ?

Cái gì là vị ngọt của hành, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly?
Ko saṅkhāresu assādo, ko ādīnavo, kiṁ nissaraṇaṁ?

Cái gì là vị ngọt của thức, cái gì là sự nguy hiểm, cái gì là sự xuất ly?”
Ko viññāṇe assādo, ko ādīnavo, kiṁ nissaraṇan”ti?

“Này Tỷ-kheo, lạc hỷ gì duyên sắc khởi lên, như vậy là vị ngọt của sắc.
“Yaṁ kho, bhikkhu, rūpaṁ paṭicca uppajjati sukhaṁ somanassaṁ, ayaṁ rūpe assādo.

Cái gì vô thường, khổ, bị biến hoại trong sắc như vậy là sự nguy hiểm của sắc.
Yaṁ rūpaṁ aniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, ayaṁ rūpe ādīnavo.

Sự nhiếp phục dục tham đối với sắc, sự đoạn diệt dục tham, như vậy là sự xuất ly của sắc.
Yo rūpe chandarāgavinayo chandarāgappahānaṁ, idaṁ rūpe nissaraṇaṁ.

Này Tỷ-kheo, lạc hỷ gì duyên thọ khởi lên, như vậy là vị ngọt của thọ … như vậy là sự xuất ly của thọ.
Yaṁ kho, bhikkhu, vedanaṁ paṭicca …

Này Tỷ-kheo, lạc hỷ gì duyên tưởng khởi lên, như vậy là vị ngọt của tưởng…. là sự xuất ly của tưởng.
saññaṁ paṭicca …

Này Tỷ-kheo, lạc hỷ gì duyên hành khởi lên như vậy là vị ngọt của hành… là sự xuất ly của hành.
saṅkhāre paṭicca …

Này Tỷ-kheo, lạc hỷ gì duyên thức khởi lên, như vậy là vị ngọt của thức.
viññāṇaṁ paṭicca uppajjati sukhaṁ somanassaṁ, ayaṁ viññāṇe assādo.

Cái gì vô thường, khổ, bị biến hoại trong thức, như vậy là sự nguy hiểm của thức.
Yaṁ viññāṇaṁ aniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, ayaṁ viññāṇe ādīnavo.

Sự nhiếp phục dục tham đối với thức, sự đoạn diệt dục tham, như vậy là sự xuất ly của thức.”
Yo viññāṇe chandarāgavinayo chandarāgappahānaṁ, idaṁ viññāṇe nissaraṇan”ti.

“Bạch Thế Tôn, do biết gì, do thấy gì, mà không có mạn tùy miên rằng: Ta là người làm, sở thuộc của ta là người làm, đối với tự thân có ý thức, và đối với cả tưởng ở ngoài?”
“Kathaṁ pana, bhante, jānato kathaṁ passato imasmiñca saviññāṇake kāye bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā na hontī”ti?

Này Tỷ-kheo, phàm có sắc gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, đối với tất cả sắc, thấy được như thật với trí tuệ là: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
“Yaṁ kiñci, bhikkhu, rūpaṁ—atītānāgatapaccuppannaṁ ajjhattaṁ vā bahiddhā vā oḷārikaṁ vā sukhumaṁ vā hīnaṁ vā paṇītaṁ vā yaṁ dūre santike vā—sabbaṁ rūpaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti—evametaṁ yathābhūtaṁ sammappaññāya passati.

Phàm có thọ gì…
Yā kāci vedanā …

tưởng gì…
yā kāci saññā …

hành gì…
ye keci saṅkhārā …

phàm có thức gì, quá khứ vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, đối với tất cả thức, thấy được như thật với trí tuệ là: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
yaṁ kiñci viññāṇaṁ—atītānāgatapaccuppannaṁ ajjhattaṁ vā bahiddhā vā oḷārikaṁ vā sukhumaṁ vā hīnaṁ vā paṇītaṁ vā yaṁ dūre santike vā—sabbaṁ viññāṇaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti—evametaṁ yathābhūtaṁ sammappaññāya passati.

Này Tỷ-kheo, do biết như vậy, thấy như vậy, nên không có mạn tùy miên rằng: Ta là người làm, sở thuộc của ta là người làm, đối với tự thân có ý thức, và đối với tất cả tướng ở ngoài.”
Evaṁ kho, bhikkhu, jānato evaṁ passato imasmiñca saviññāṇake kāye bahiddhā ca sabbanimittesu ahaṅkāramamaṅkāramānānusayā na hontī”ti.

Rồi một Tỷ-kheo khác khởi lên sự suy tư như sau:
Atha kho aññatarassa bhikkhuno evaṁ cetaso parivitakko udapādi:

“Nếu được nói rằng, chư Tôn giả, sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã; như vậy những hành động do vô ngã làm đã được ngã nào cảm thọ kết quả?”
“iti kira, bho, rūpaṁ anattā, vedanā anattā, saññā anattā, saṅkhārā anattā, viññāṇaṁ anattā; anattakatāni kammāni kamattānaṁ phusissantī”ti?

Thế Tôn biết được tâm tư của Tỷ-kheo ấy với tâm tư của mình, liền nói với các Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā tassa bhikkhuno cetasā cetoparivitakkamaññāya bhikkhū āmantesi:

“Này các Tỷ-kheo, sự kiện này xảy ra, khi ở đây có kẻ ngu si, vô tri, vô minh, với tâm bị tham dục chi phối, lại nghĩ cần phải vượt qua lời dạy của bậc Ðạo sư với câu hỏi:
“ṭhānaṁ kho panetaṁ, bhikkhave, vijjati yaṁ idhekacco moghapuriso avidvā avijjāgato taṇhādhipateyyena cetasā satthu sāsanaṁ atidhāvitabbaṁ maññeyya:

‘Nếu được nói rằng, chư Tôn giả, sắc là vô ngã, thọ là vô ngã, tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã; như vậy những hành động do vô ngã làm đã được ngã nào cảm thọ kết quả?’
‘iti kira, bho, rūpaṁ anattā, vedanā anattā, saññā anattā, saṅkhārā anattā, viññāṇaṁ anattā; anattakatāni kammāni kamattānaṁ phusissantī’ti.

Này các Tỷ-kheo, các Ông đã được Ta huấn luyện tìm kiếm nhân duyên, chỗ này chỗ kia, đối với những pháp này, pháp khác.
Paṭivinītā kho me tumhe, bhikkhave, tatra tatra dhammesu.

Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, sắc là thường hay vô thường?”
Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave, rūpaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Vô thường, bạch Thế Tôn.”
“Aniccaṁ, bhante”.

“Những gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?

“Là khổ, bạch Thế Tôn.”
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Những gì vô thường, khổ, bị biến hoại, có hợp lý chăng khi xem:
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ:

‘Cái này của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṁ, bhante”.

“Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, thọ … tưởng … hành … thức là thường hay vô thường?”
“Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave, vedanā … saññā … saṅkhārā … viññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Vô thường, bạch Thế Tôn.”
“Aniccaṁ, bhante”.

“Những gì vô thường, là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?

“Là khổ, bạch Thế Tôn.”
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Những gì vô thường, khổ, bị biến hoại, có hợp lý chăng khi xem:
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ:

‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.”
“No hetaṁ, bhante”.

“Do vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có sắc gì, quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại … tất cả loại sắc, cần phải như thật quán: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
“Tasmātiha, bhikkhave, yaṁ kiñci rūpaṁ atītānāgatapaccuppannaṁ ajjhattaṁ vā bahiddhā vā oḷārikaṁ vā sukhumaṁ vā hīnaṁ vā paṇītaṁ vā yaṁ dūre santike vā sabbaṁ rūpaṁ: ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṁ yathābhūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ.

Phàm có thọ gì …
Yā kāci vedanā …

phàm có tưởng gì …
yā kāci saññā …

phàm có hành gì …
ye keci saṅkhārā …

phàm có thức gì quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại … tất cả loại thức, cần phải như thật quán: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
yaṁ kiñci viññāṇaṁ atītānāgatapaccuppannaṁ ajjhattaṁ vā bahiddhā vā oḷārikaṁ vā sukhumaṁ vā hīnaṁ vā paṇītaṁ vā yaṁ dūre santike vā sabbaṁ viññāṇaṁ: ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṁ yathābhūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, vị Ða văn Thánh đệ tử yếm ly đối với sắc, yếm ly đối với thọ, yếm ly đối với tưởng, yếm ly đối với hành, yếm ly đối với thức.
Evaṁ passaṁ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako rūpasmimpi nibbindati, vedanāyapi nibbindati, saññāyapi nibbindati, saṅkhāresupi nibbindati, viññāṇasmimpi nibbindati;

Do yếm ly nên ly tham, do ly tham nên được giải thoát. Trong sự giải thoát, vị ấy biết được vị ấy đã giải thoát.
nibbindaṁ virajjati, virāgā vimuccati. Vimuttasmiṁ vimuttamiti ñāṇaṁ hoti.

Vị ấy biết: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm. Từ nay không còn trở lại đời sống thế này nữa’.
‘Khīṇā jāti, vusitaṁ brahmacariyaṁ, kataṁ karaṇīyaṁ, nāparaṁ itthattāyā’ti pajānātī”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṁ abhinandunti.

Trong khi sự giảng giải này được nói lên, tâm của sáu mươi vị Tỷ-kheo được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṁ bhaññamāne saṭṭhimattānaṁ bhikkhūnaṁ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṁsūti.

Mahāpuṇṇamasuttaṁ niṭṭhitaṁ navamaṁ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt