Sáng/Tối

Dīgha Nikāya – Trường Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trường Bộ 29

Trường Bộ 29
Dīgha Nikāya 29

Kinh Thanh Tịnh
Pāsādikasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—

Một thời, Thế Tôn trú giữa giòng tộc Sakya (Thích-ca) trong vườn xoài của một gia đình Thích-ca tên là Vedhañña.
ekaṁ samayaṁ bhagavā sakkesu viharati vedhaññā nāma sakyā, tesaṁ ambavane pāsāde.

Lúc bấy giờ, Nigaṇṭha Nātaputta (Ni-kiền tử) vừa mới tạ thế ở Pāvā.
Tena kho pana samayena nigaṇṭho nāṭaputto pāvāyaṁ adhunākālaṅkato hoti.

Sau khi vị này tạ thế, các vị Nigaṇṭha chia ra làm hai phái, chia rẽ nhau, tranh chấp nhau, tranh luận nhau và sống tàn hại nhau với binh khí bằng miệng:
Tassa kālaṅkiriyāya bhinnā nigaṇṭhā dvedhikajātā bhaṇḍanajātā kalahajātā vivādāpannā aññamaññaṁ mukhasattīhi vitudantā viharanti:

“Ngươi không biết pháp luật này, ta biết pháp luật này. Sao Ngươi có thể biết pháp luật này? Ngươi theo tà hạnh, ta theo chánh hạnh. Lời nói của ta tương ưng, lời nói Ngươi không tương ưng. Ðiều đáng nói trước, Ngươi nói sau; điều đáng nói sau, Ngươi nói trước. Ðiều Ngươi quan niệm trình bày, đã bị đảo lộn. Quan điểm của Ngươi đã bị thách đố. Ngươi đã bị đánh bại. Hãy đi giải tỏa quan điểm của Ngươi! Hãy tự thoát khỏi bế tắc nếu Ngươi có thể làm được.”
“na tvaṁ imaṁ dhammavinayaṁ ājānāsi, ahaṁ imaṁ dhammavinayaṁ ājānāmi, kiṁ tvaṁ imaṁ dhammavinayaṁ ājānissasi? Micchāpaṭipanno tvamasi, ahamasmi sammāpaṭipanno. Sahitaṁ me, asahitaṁ te. Purevacanīyaṁ pacchā avaca, pacchāvacanīyaṁ pure avaca. Adhiciṇṇaṁ te viparāvattaṁ, āropito te vādo, niggahito tvamasi, cara vādappamokkhāya, nibbeṭhehi vā sace pahosī”ti.

Hình như các đệ tử của Nigaṇṭha Nātaputta muốn tàn hại lẫn nhau.
Vadhoyeva kho maññe nigaṇṭhesu nāṭaputtiyesu vattati.

Chính các đệ tử cư sĩ mặc đồ trắng của Nigaṇṭha Nātaputta cũng chán ngấy, cơ hiềm, và phản đối các vị Nigantha, vì pháp luật của họ đã được trình bày, tuyên bố một cách vụng về, không có hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến an tịnh, không do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết, pháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ y chỉ.
Yepi nigaṇṭhassa nāṭaputtassa sāvakā gihī odātavasanā, tepi nigaṇṭhesu nāṭaputtiyesu nibbinnarūpā virattarūpā paṭivānarūpā, yathā taṁ durakkhāte dhammavinaye duppavedite aniyyānike anupasamasaṁvattanike asammāsambuddhappavedite bhinnathūpe appaṭisaraṇe.

Rồi Sa-di Cunda (Thuần-đà), sau khi an cư mùa mưa ở Pāvā đến thăm tôn giả Ānanda ở Sāmāgama, sau khi đến, đảnh lễ tôn giả Ānanda (A-nan) và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên. Sa-di Cunda bạch tôn giả Ānanda:
Atha kho cundo samaṇuddeso pāvāyaṁ vassaṁvuṭṭho yena sāmagāmo, yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṁ ānandaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho cundo samaṇuddeso āyasmantaṁ ānandaṁ etadavoca:

Bạch Tôn giả, Nigaṇṭha Nātaputta đã từ trần ở Pāvā sau khi vị này tạ thế, các Nigaṇṭha chia ra làm hai phái… Pháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ y chỉ.
“nigaṇṭho, bhante, nāṭaputto pāvāyaṁ adhunākālaṅkato. Tassa kālaṅkiriyāya bhinnā nigaṇṭhā dvedhikajātā …pe… bhinnathūpe appaṭisaraṇe”ti.

Khi nghe nói vậy, tôn giả Ānanda nói với Sa-di Cunda:
Evaṁ vutte, āyasmā ānando cundaṁ samaṇuddesaṁ etadavoca:

“Này Hiền giả Cunda, đây là vấn đề đáng đưa ra để yết kiến Thế Tôn.
“atthi kho idaṁ, āvuso cunda, kathāpābhataṁ bhagavantaṁ dassanāya.

Này Hiền giả Cunda, chúng ta hãy đi yết kiến Thế Tôn; sau khi đến xong, chúng ta hãy trình bày vấn đề này để Thế Tôn biết.”
Āyāmāvuso cunda, yena bhagavā tenupasaṅkamissāma; upasaṅkamitvā etamatthaṁ bhagavato ārocessāmā”ti.

“Bạch Tôn giả, vâng!” Sa-di Cunda vâng lời tôn giả Ānanda.
“Evaṁ, bhante”ti kho cundo samaṇuddeso āyasmato ānandassa paccassosi.

Rồi tôn giả Ānanda cùng với Sa-di Cunda, đi đến yết kiến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā ca ānando cundo ca samaṇuddeso yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Ekamantaṁ nisinno kho āyasmā ānando bhagavantaṁ etadavoca:

Bạch Thế Tôn, Sa-di Cunda có nói: “Nigaṇṭha Nātaputta đã từ trần ở Pāvā. Sau khi vị này từ trần, các vị Nigantha chia ra làm hai phái… pháp y chỉ đã bị đổ vỡ, không có chỗ y chỉ.”
“ayaṁ, bhante, cundo samaṇuddeso evamāha, ‘nigaṇṭho, bhante, nāṭaputto pāvāyaṁ adhunākālaṅkato, tassa kālaṅkiriyāya bhinnā nigaṇṭhā …pe… bhinnathūpe appaṭisaraṇe’”ti.

1. Lời Dạy Của Người Không Giác Ngộ
1. Asammāsambuddhappaveditadhammavinaya

“Này Cunda, như vậy ở đây pháp luật đã được trình bày tuyên bố một cách vụng về, không có hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến an tịnh, không do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết.
“Evaṁ hetaṁ, cunda, hoti durakkhāte dhammavinaye duppavedite aniyyānike anupasamasaṁvattanike asammāsambuddhappavedite.

Này Cunda, ở đây có vị đạo sư không phải là Chánh Ðẳng Giác, có pháp luật đã được trình bày tuyên bố một cách vụng về, không có hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến an tịnh, không do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết.
Idha, cunda, satthā ca hoti asammāsambuddho, dhammo ca durakkhāto duppavedito aniyyāniko anupasamasaṁvattaniko asammāsambuddhappavedito,

Và người đệ tử trong pháp này, không thành tựu và an trú trong pháp và tùy pháp, không sống đúng chánh hạnh, không sống đúng tùy pháp, sống vượt ra ngoài pháp.
sāvako ca tasmiṁ dhamme na dhammānudhammappaṭipanno viharati na sāmīcippaṭipanno na anudhammacārī, vokkamma ca tamhā dhammā vattati.

Người đệ tử ấy cần được nói như sau:
So evamassa vacanīyo:

‘Này Hiền giả, thật là lợi ích cho Ngươi. Thật khéo chứng đắc cho Ngươi.
‘tassa te, āvuso, lābhā, tassa te suladdhaṁ,

Ðạo sư của Ngươi không phải là vị Chánh Ðẳng Giác. Pháp của Ngươi đã được trình bày, tuyên bố một cách vụng về, không có hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến an tịnh, không do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên bố.
satthā ca te asammāsambuddho, dhammo ca durakkhāto duppavedito aniyyāniko anupasamasaṁvattaniko asammāsambuddhappavedito.

Và Ngươi trong pháp này, không thành tựu và an trú trong pháp và tùy pháp, không sống đúng chánh hạnh, không sống đúng tùy pháp, vượt ra ngoài pháp.’
Tvañca tasmiṁ dhamme na dhammānudhammappaṭipanno viharasi, na sāmīcippaṭipanno, na anudhammacārī, vokkamma ca tamhā dhammā vattasī’ti.

Này Cunda, như vậy ở đây, vị đạo sư đáng quở trách, ở đây pháp đáng quở trách, nhưng ở đây đệ tử đáng tán thán.
Iti kho, cunda, satthāpi tattha gārayho, dhammopi tattha gārayho, sāvako ca tattha evaṁ pāsaṁso.

Này Cunda, với vị đệ tử như vậy, nên nói như sau:
Yo kho, cunda, evarūpaṁ sāvakaṁ evaṁ vadeyya:

‘Này Ðại đức, dầu Ðại đức thực hành đúng như pháp vị đạo sư đã dạy và trình bày.’
‘etāyasmā tathā paṭipajjatu, yathā te satthārā dhammo desito paññatto’ti.

Ai có suy tầm, ai có bị suy tầm, ai có suy tầm rồi như thực thi hành, tất cả đều không có phước báo.
Yo ca samādapeti, yañca samādapeti, yo ca samādapito tathattāya paṭipajjati. Sabbe te bahuṁ apuññaṁ pasavanti.

Vì sao vậy?
Taṁ kissa hetu?

Vì pháp luật đã được trình bày tuyên bố một cách vụng về, không có hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến an tịnh, không do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết.
Evaṁ hetaṁ, cunda, hoti durakkhāte dhammavinaye duppavedite aniyyānike anupasamasaṁvattanike asammāsambuddhappavedite.

Này Cunda, ở đây, vị đạo sư không là vị Chánh Ðẳng Giác, và pháp được trình bày tuyên bố một cách vụng về, không có hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến an tịnh, không do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết,
Idha pana, cunda, satthā ca hoti asammāsambuddho, dhammo ca durakkhāto duppavedito aniyyāniko anupasamasaṁvattaniko asammāsambuddhappavedito,

và vị đệ tử trong pháp này, sống thành tựu pháp và tùy pháp, sống theo chánh hạnh, sống đúng tùy pháp, sống thuận theo pháp.
sāvako ca tasmiṁ dhamme dhammānudhammappaṭipanno viharati sāmīcippaṭipanno anudhammacārī, samādāya taṁ dhammaṁ vattati.

Người này nên được nói như sau:
So evamassa vacanīyo:

‘Này Hiền giả, thật không lợi ích cho Ngươi, thật không khéo chứng đắc cho Ngươi. Vị đạo sư của Ngươi không là vị Chánh Ðẳng Giác và pháp được trình bày tuyên bố một cách vụng về, không có hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến an tịnh, không do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết,
‘tassa te, āvuso, alābhā, tassa te dulladdhaṁ, satthā ca te asammāsambuddho, dhammo ca durakkhāto duppavedito aniyyāniko anupasamasaṁvattaniko asammāsambuddhappavedito.

những người trong pháp này sống thành tựu pháp và tùy pháp, sống theo chánh hạnh, sống đúng tùy pháp, sống thuận theo pháp.’
Tvañca tasmiṁ dhamme dhammānudhammappaṭipanno viharasi sāmīcippaṭipanno anudhammacārī, samādāya taṁ dhammaṁ vattasī’ti.

Này Cunda, ở đây vị đạo sư đáng quở trách, ở đây pháp đáng quở trách, ở đây vị đệ tử cũng đáng quở trách.
Iti kho, cunda, satthāpi tattha gārayho, dhammopi tattha gārayho, sāvakopi tattha evaṁ gārayho.

Này Cunda, với vị đệ tử như vậy, có ai, nên nói như sau:
Yo kho, cunda, evarūpaṁ sāvakaṁ evaṁ vadeyya:

‘Thật vậy, Ðại đức thành tựu theo chánh hạnh, tinh tấn trong chánh hạnh.’
‘addhāyasmā ñāyappaṭipanno ñāyamārādhessatī’ti.

Người khen, người được khen, người được khen như vậy lại càng tinh tấn hơn nữa, tất cả đều không được phước đức.
Yo ca pasaṁsati, yañca pasaṁsati, yo ca pasaṁsito bhiyyoso mattāya vīriyaṁ ārabhati. Sabbe te bahuṁ apuññaṁ pasavanti.

Vì sao vậy?
Taṁ kissa hetu?

Này Cunda, vì pháp được trình bày tuyên bố một cách vụng về, không có hiệu năng hướng dẫn, không hướng đến an tịnh, không do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết.
Evañhetaṁ, cunda, hoti durakkhāte dhammavinaye duppavedite aniyyānike anupasamasaṁvattanike asammāsambuddhappavedite.

2. Lời Dạy Của Bậc Giác Ngộ
2. Sammāsambuddhappaveditadhammavinaya

Này Cunda, ở đây vị đạo sư là vị Chánh Ðẳng Giác, pháp được khéo giảng và trình bày, có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết.
Idha pana, cunda, satthā ca hoti sammāsambuddho, dhammo ca svākkhāto suppavedito niyyāniko upasamasaṁvattaniko sammāsambuddhappavedito,

Vị đệ tử trong pháp này sống không thành tựu pháp và tùy pháp, sống không theo chánh hạnh, sống không đúng tùy pháp, sống không thuận theo pháp.
sāvako ca tasmiṁ dhamme na dhammānudhammappaṭipanno viharati, na sāmīcippaṭipanno, na anudhammacārī, vokkamma ca tamhā dhammā vattati.

Vị đệ tử ấy cần phải được nói:
So evamassa vacanīyo:

‘Này Hiền giả, thật không lợi ích cho Ngươi, thật không khéo chứng đắc cho Ngươi. Vị đạo sư của Ngươi là vị Chánh Ðẳng Giác, pháp được khéo tuyên bố trình bày, có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết.
‘tassa te, āvuso, alābhā, tassa te dulladdhaṁ, satthā ca te sammāsambuddho, dhammo ca svākkhāto suppavedito niyyāniko upasamasaṁvattaniko sammāsambuddhappavedito.

Nhưng Ngươi trong pháp này sống không thành tựu pháp, sống không theo chánh hạnh, sống không đúng tùy pháp, sống không thuận theo pháp.’
Tvañca tasmiṁ dhamme na dhammānudhammappaṭipanno viharasi, na sāmīcippaṭipanno, na anudhammacārī, vokkamma ca tamhā dhammā vattasī’ti.

Này Cunda, ở đây vị đạo sư đáng được tán thán, ở đây pháp đáng được tán thán, ở đây vị đệ tử đáng quở trách.
Iti kho, cunda, satthāpi tattha pāsaṁso, dhammopi tattha pāsaṁso, sāvako ca tattha evaṁ gārayho.

Nếu có ai, hãy nói với vị đệ tử ấy như sau:
Yo kho, cunda, evarūpaṁ sāvakaṁ evaṁ vadeyya:

‘Ðại đức hãy thực hành đúng như pháp do vị đạo sư của Ðại đức trình bày và tuyên thuyết.’
‘etāyasmā tathā paṭipajjatu yathā te satthārā dhammo desito paññatto’ti.

Ai có điều tra, ai có bị điều tra, ai có bị điều tra rồi như thực thi hành, tất cả đều được phước báo
Yo ca samādapeti, yañca samādapeti, yo ca samādapito tathattāya paṭipajjati. Sabbe te bahuṁ puññaṁ pasavanti.

Vì sao vậy?
Taṁ kissa hetu?

Này Cunda, pháp luật này khéo thuyết khéo trình bày là như vậy, có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết.
Evañhetaṁ, cunda, hoti svākkhāte dhammavinaye suppavedite niyyānike upasamasaṁvattanike sammāsambuddhappavedite.

Này Cunda ở đây vị đạo sư là Chánh Ðẳng Giác, và pháp được khéo tuyên thuyết, khéo trình bày, có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, do vị Cháng Ðẳng Giác tuyên thuyết,
Idha pana, cunda, satthā ca hoti sammāsambuddho, dhammo ca svākkhāto suppavedito niyyāniko upasamasaṁvattaniko sammāsambuddhappavedito,

và vị đệ tử trong pháp này sống thành tựu pháp và tùy pháp, sống thành tựu chánh hạnh, sống đúng tùy pháp, sống thuận theo pháp.
sāvako ca tasmiṁ dhamme dhammānudhammappaṭipanno viharati sāmīcippaṭipanno anudhammacārī, samādāya taṁ dhammaṁ vattati.

Nếu có ai, hãy nói vị đệ tử ấy nói như sau:
So evamassa vacanīyo:

‘Này Hiền giả, thật là lợi ích cho Ngươi, thật khéo chứng đắc cho Ngươi.
‘tassa te, āvuso, lābhā, tassa te suladdhaṁ,

Vị đạo sư của Ngươi là vị A la hán Chánh Ðẳng Giác, pháp được khéo tuyên thuyết, được khéo trình bày, có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết.
satthā ca te sammāsambuddho, dhammo ca svākkhāto suppavedito niyyāniko upasamasaṁvattaniko sammāsambuddhappavedito.

Và Ngươi trong pháp này sống thành tựu pháp và tùy pháp, sống thành tựu chánh hạnh, sống đúng tùy pháp, sống thuận theo pháp.’
Tvañca tasmiṁ dhamme dhammānudhammappaṭipanno viharasi sāmīcippaṭipanno anudhammacārī, samādāya taṁ dhammaṁ vattasī’ti.

Này Cunda, như vậy ở đây vị đạo sư đáng được tán thán, ở đây pháp đáng được tán thán, ở đây vị đệ tử cũng đáng được tán thán.
Iti kho, cunda, satthāpi tattha pāsaṁso, dhammopi tattha pāsaṁso, sāvakopi tattha evaṁ pāsaṁso.

Này Cunda, nếu có ai, hãy nói vị đệ tử ấy như sau:
Yo kho, cunda, evarūpaṁ sāvakaṁ evaṁ vadeyya:

‘Thật vậy, Ðại đức thành tựu như pháp, tinh tấn như pháp.’
‘addhāyasmā ñāyappaṭipanno ñāyamārādhessatī’ti.

Người khen, người được khen, người được khen như vậy lại càng tinh tấn thực hành, tất cả đều được nhiều công đức.
Yo ca pasaṁsati, yañca pasaṁsati, yo ca pasaṁsito bhiyyoso mattāya vīriyaṁ ārabhati. Sabbe te bahuṁ puññaṁ pasavanti.

Vì sao vậy?
Taṁ kissa hetu?

Này Cunda, vì pháp luật được khéo tuyên thuyết, khéo trình bày như vậy, có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết.
Evañhetaṁ, cunda, hoti svākkhāte dhammavinaye suppavedite niyyānike upasamasaṁvattanike sammāsambuddhappavedite.

3. Sự Ưu Tư Của Đệ Tử
3. Sāvakānutappasatthu

Này Cunda, ở đây vị đạo sư xuất hiện ở đời, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác, và pháp được khéo tuyên thuyết, được khéo trình bày, có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết.
Idha pana, cunda, satthā ca loke udapādi arahaṁ sammāsambuddho, dhammo ca svākkhāto suppavedito niyyāniko upasamasaṁvattaniko sammāsambuddhappavedito,

Và các vị đệ tử chưa được tinh thông diệu pháp, và phạm hạnh hoàn toàn viên mãn chưa được tỏ lộ cho các vị này, chưa được trình bày rõ ràng, với tất cả thứ bậc vị trí liên hệ, chưa được trở thành diệu dụng, chưa được khéo trình bày cho loài Người.
aviññāpitatthā cassa honti sāvakā saddhamme, na ca tesaṁ kevalaṁ paripūraṁ brahmacariyaṁ āvikataṁ hoti uttānīkataṁ sabbasaṅgāhapadakataṁ sappāṭihīrakataṁ yāva devamanussehi suppakāsitaṁ.

Và vị đạo sư viên tịch.
Atha nesaṁ satthuno antaradhānaṁ hoti.

Này Cunda, đối với vị đạo sư như vậy, nếu viên tịch, các đệ tử sẽ ưu tư rất nhiều.
Evarūpo kho, cunda, satthā sāvakānaṁ kālaṅkato anutappo hoti.

Vì sao vậy?
Taṁ kissa hetu?

Vì đạo sư của chúng ta xuất hiện ở đời, và pháp được khéo tuyên thuyết, khéo trình bày, có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết. Nhưng chúng ta chưa được tinh thông diệu pháp, và phạm hạnh hoàn toàn viên mãn chưa được tỏ lộ cho chúng ta với tất cả thứ bậc, vị trí liên hệ, chưa được trở thành diệu dụng, chưa được khéo trình bày cho loài Người.
‘Satthā ca no loke udapādi arahaṁ sammāsambuddho, dhammo ca svākkhāto suppavedito niyyāniko upasamasaṁvattaniko sammāsambuddhappavedito, aviññāpitatthā camha saddhamme, na ca no kevalaṁ paripūraṁ brahmacariyaṁ āvikataṁ hoti uttānīkataṁ sabbasaṅgāhapadakataṁ sappāṭihīrakataṁ yāva devamanussehi suppakāsitaṁ.

Và vị đạo sư của chúng ta viên tịch.’
Atha no satthuno antaradhānaṁ hotī’ti.

Này Cunda, vị Ðạo sư như vậy có viên tịch, các đệ tử có sự ưu tư.
Evarūpo kho, cunda, satthā sāvakānaṁ kālaṅkato anutappo hoti.

4. Đệ Tử Không Có Ưu Tư
4. Sāvakānanutappasatthu

Này Cunda, ở đây vị đạo sư xuất hiện ở đời, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác, pháp được khéo tuyên bố và được khéo trình bày, có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, do vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết.
Idha pana, cunda, satthā ca loke udapādi arahaṁ sammāsambuddho. Dhammo ca svākkhāto suppavedito niyyāniko upasamasaṁvattaniko sammāsambuddhappavedito.

Và các vị đệ tử được tinh thông diệu pháp, và phạm hạnh hoàn toàn viên mãn được tỏ lộ cho các vị ấy với tất cả thứ bậc vị trí liên hệ, được trở thành diệu dụng, được khéo trình bày cho loài Người.
Viññāpitatthā cassa honti sāvakā saddhamme, kevalañca tesaṁ paripūraṁ brahmacariyaṁ āvikataṁ hoti uttānīkataṁ sabbasaṅgāhapadakataṁ sappāṭihīrakataṁ yāva devamanussehi suppakāsitaṁ.

Và vị đạo sư của những vị ấy viên tịch.
Atha nesaṁ satthuno antaradhānaṁ hoti.

Này Cunda, vị đạo sư như vậy có viên tịch, các đệ tử không có ưu tư.
Evarūpo kho, cunda, satthā sāvakānaṁ kālaṅkato ananutappo hoti.

Vì cớ sao?
Taṁ kissa hetu?

Vị đạo sư của chúng ta xuất hiện ở đời là bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác.
‘Satthā ca no loke udapādi arahaṁ sammāsambuddho.

Pháp được khéo tuyên thuyết, được khéo trình bày, có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, được vị Chánh Ðẳng Giác tuyên thuyết.
Dhammo ca svākkhāto suppavedito niyyāniko upasamasaṁvattaniko sammāsambuddhappavedito.

Còn chúng ta được tinh thông diệu pháp, và phạm hạnh hoàn toàn viên mãn được tỏ lộ cho chúng ta biết với tất cả thứ bậc vị trí liên hệ, được trở thành diệu dụng, được khéo trình bày cho loài Người.
Viññāpitatthā camha saddhamme, kevalañca no paripūraṁ brahmacariyaṁ āvikataṁ hoti uttānīkataṁ sabbasaṅgāhapadakataṁ sappāṭihīrakataṁ yāva devamanussehi suppakāsitaṁ.

Và vị Ðạo sư của chúng ta viên tịch.’
Atha no satthuno antaradhānaṁ hotī’ti.

Này Cunda, vị đạo sư như vậy có viên tịch, các đệ tử không có ưu tư.
Evarūpo kho, cunda, satthā sāvakānaṁ kālaṅkato ananutappo hoti.

5. Không Viên Mãn Phạm Hạnh
5. Brahmacariyaaparipūrādikathā

Này Cunda, nếu phạm hạnh được đầy đủ những chi phần như vậy, nếu không có một vị đạo sư là một vị Thượng tọa có nhiều kinh nghiệm, xuất gia lâu ngày, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến tuổi trưởng thành.
Etehi cepi, cunda, aṅgehi samannāgataṁ brahmacariyaṁ hoti, no ca kho satthā hoti thero rattaññū cirapabbajito addhagato vayoanuppatto.

Một phạm hạnh như vậy được xem là không viên mãn, trong trường hợp như vậy.
Evaṁ taṁ brahmacariyaṁ aparipūraṁ hoti tenaṅgena.

Này Cunda, nếu phạm hạnh được đầy đủ những chi phần như vậy, và nếu có vị đạo sư là một vị Thượng tọa có nhiều kinh nghiệm, xuất gia lâu ngày, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến tuổi trưởng thành.
Yato ca kho, cunda, etehi ceva aṅgehi samannāgataṁ brahmacariyaṁ hoti, satthā ca hoti thero rattaññū cirapabbajito addhagato vayoanuppatto.

Một phạm hạnh như vậy được xem là viên mãn, trong trường hợp như vậy.
Evaṁ taṁ brahmacariyaṁ paripūraṁ hoti tenaṅgena.

Này Cunda, nếu phạm hạnh được đầy đủ những chi phần như vậy, và có vị đạo sư là vị Thượng tọa có nhiều kinh nghiệm, xuất gia lâu ngày, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến tuổi trưởng thành,
Etehi cepi, cunda, aṅgehi samannāgataṁ brahmacariyaṁ hoti, satthā ca hoti thero rattaññū cirapabbajito addhagato vayoanuppatto, no ca khvassa therā bhikkhū sāvakā honti viyattā vinītā visāradā pattayogakkhemā.

Nhưng không có các vị Thượng tọa Tỷ kheo, những vị đệ tử là những vị sáng suốt, tự điều phục, vô úy, đa văn, đã đạt đến sự an ổn, có thể thuyết diệu pháp, với giáo lý ngoại đạo được khởi lên có thể khéo nhiếp phục với giáo pháp của mình, có thể thuyết diệu pháp bất tư nghì.
Alaṁ samakkhātuṁ saddhammassa, alaṁ uppannaṁ parappavādaṁ sahadhammehi suniggahitaṁ niggahetvā sappāṭihāriyaṁ dhammaṁ desetuṁ.

Như vậy phạm hạnh này không thể viên mãn bởi chi tiết này.
Evaṁ taṁ brahmacariyaṁ aparipūraṁ hoti tenaṅgena.

Này Cunda, khi nào phạm hạnh được đầy đủ về những phương diện này, vị đạo sư là vị Thượng tọa, có nhiều kinh nghiệm, xuất gia đã lâu ngày, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến tuổi trưởng thành.
Yato ca kho, cunda, etehi ceva aṅgehi samannāgataṁ brahmacariyaṁ hoti, satthā ca hoti thero rattaññū cirapabbajito addhagato vayoanuppatto, therā cassa bhikkhū sāvakā honti viyattā vinītā visāradā pattayogakkhemā.

Và những vị Thượng tọa Tỷ kheo, những vị đệ tử là những vị sáng suốt, tự điều phục, vô úy, đa văn, đã đạt đến sự an ổn, có thể thuyết diệu pháp, với giáo lý ngoại đạo được khởi lên có thể khéo nhiếp phục với giáo pháp của mình, có thể thuyết diệu pháp bất tư nghì.
Alaṁ samakkhātuṁ saddhammassa, alaṁ uppannaṁ parappavādaṁ sahadhammehi suniggahitaṁ niggahetvā sappāṭihāriyaṁ dhammaṁ desetuṁ.

Như vậy phạm hạnh này viên mãn bởi chi tiết này.
Evaṁ taṁ brahmacariyaṁ paripūraṁ hoti tenaṅgena.

Này Cunda, khi nào phạm hạnh được đầy đủ về những phương diện này, vị đạo sư là vị Thượng tọa, có nhiều kinh nghiệm, xuất gia đã lâu ngày, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến tuổi trưởng thành.
Etehi cepi, cunda, aṅgehi samannāgataṁ brahmacariyaṁ hoti, satthā ca hoti thero rattaññū cirapabbajito addhagato vayoanuppatto, therā cassa bhikkhū sāvakā honti viyattā vinītā visāradā pattayogakkhemā.

Và những vị Thượng tọa Tỷ kheo, những vị đệ tử là những vị sáng suốt, tự điều phục, vô úy, đa văn, đã đạt đến sự an ổn, có thể thuyết diệu pháp, với giáo lý ngoại đạo được khởi lên có thể khéo nhiếp phục với giáo pháp của mình, có thể thuyết diệu pháp bất tư nghì.
Alaṁ samakkhātuṁ saddhammassa, alaṁ uppannaṁ parappavādaṁ sahadhammehi suniggahitaṁ niggahetvā sappāṭihāriyaṁ dhammaṁ desetuṁ.

Nếu không có các vị Trung lạp Tỷ kheo, những vị đệ tử…
No ca khvassa majjhimā bhikkhū sāvakā honti …pe…

Có các vị Trung lạp Tỷ kheo, những vị đệ tử…
majjhimā cassa bhikkhū sāvakā honti …pe…

Nhưng nếu không có các vị Hạ lạp Tỷ kheo, những vị đệ tử…
no ca khvassa navā bhikkhū sāvakā honti …pe…

có các Hạ lạp Tỷ kheo, những vị đệ tử…
navā cassa bhikkhū sāvakā honti …pe…

Nhưng nếu không có các vị Trưởng lão Tỷ kheo ni, các vị đệ tử…
no ca khvassa therā bhikkhuniyo sāvikā honti …pe…

Có các vị Trưởng lão Tỷ kheo ni, những vị đệ tử, …
therā cassa bhikkhuniyo sāvikā honti, …pe…

Nhưng nếu không có các vị Trung lạp Tỷ kheo ni, các vị đệ tử…
no ca khvassa majjhimā bhikkhuniyo sāvikā honti …pe…

Có các vị Trung lạp Tỷ kheo ni, các vị đệ tử…
majjhimā cassa bhikkhuniyo sāvikā honti, …pe…

Nhưng nếu không có các vị Hạ lạp Tỷ kheo ni, các vị đệ tử…
no ca khvassa navā bhikkhuniyo sāvikā honti …pe…

Có các vị Hạ lạp Tỷ kheo ni, các vị đệ tử…
navā cassa bhikkhuniyo sāvikā honti, …pe…

Nhưng nếu không có Nam cư sĩ đệ tử, những vị tại gia, mặc áo trắng, sống theo phạm hạnh…
no ca khvassa upāsakā sāvakā honti gihī odātavasanā brahmacārino …pe…

Có những Nam cư sĩ đệ tử, những vị tại gia, mặc áo trắng, sống theo phạm hạnh…
upāsakā cassa sāvakā honti gihī odātavasanā brahmacārino, …pe…

Nhưng nếu không có những Nam cư sĩ đệ tử, những vị tại gia, mặc áo trắng, chấp nhận dục lạc…
no ca khvassa upāsakā sāvakā honti gihī odātavasanā kāmabhogino …pe…

Có những Nam cư sĩ đệ tử, những vị tại gia, mặc áo trắng, chấp nhận dục lạc…
upāsakā cassa sāvakā honti gihī odātavasanā kāmabhogino, …pe…

Nhưng nếu không có những Nữ cư sĩ đệ tử, những vị tại gia, mặc áo trắng, sống theo phạm hạnh…
no ca khvassa upāsikā sāvikā honti gihiniyo odātavasanā brahmacāriniyo …pe…

Có những Nư cư sĩ đệ tử, những vị tại gia mặc áo trắng, sống theo phạm hạnh…
upāsikā cassa sāvikā honti gihiniyo odātavasanā brahmacāriniyo, …pe…

Nhưng nếu không có những Nữ cư sĩ đệ tử, những vị tại gia, mặc áo trắng chấp nhận dục lạc…
no ca khvassa upāsikā sāvikā honti gihiniyo odātavasanā kāmabhoginiyo …pe…

Có những Nữ cư sĩ đệ tử, những vị tại gia, mặc áo trắng chấp nhận dục lạc …
upāsikā cassa sāvikā honti gihiniyo odātavasanā kāmabhoginiyo,

Phạm hạnh như vậy không thành công, hưng thịnh, phát triển và phổ thông một cách rộng rãi, khéo tuyên bố giữa thiên nhân, …
no ca khvassa brahmacariyaṁ hoti iddhañceva phītañca vitthārikaṁ bāhujaññaṁ puthubhūtaṁ yāva devamanussehi suppakāsitaṁ …pe…

Phạm hạnh như vậy được thành công, hưng thịnh, phát triển và phổ thông một cách rộng rãi, khéo tuyên bố giữa thiên nhân, nhưng không đạt được danh xưng và lợi dưỡng một cách tối thắng
brahmacariyañcassa hoti iddhañceva phītañca vitthārikaṁ bāhujaññaṁ puthubhūtaṁ yāva devamanussehi suppakāsitaṁ, no ca kho lābhaggayasaggappattaṁ.

Phạm hạnh như vậy không được viên mãn về phương diện này.
Evaṁ taṁ brahmacariyaṁ aparipūraṁ hoti tenaṅgena.

Này Cunda, khi nào phạm hạnh được đầy đủ với những phương diện này, vị đạo sư là Thượng tọa có nhiều kinh nghiệm, xuất gia đã lâu ngày, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến tuổi trưởng thành.
Yato ca kho, cunda, etehi ceva aṅgehi samannāgataṁ brahmacariyaṁ hoti, satthā ca hoti thero rattaññū cirapabbajito addhagato vayoanuppatto, therā cassa bhikkhū sāvakā honti viyattā vinītā visāradā pattayogakkhemā.

Và những vị Thượng tọa là những bậc Tỷ kheo, những vị đệ tử sáng suốt, tự điều phục, vô úy, đa văn, đã đạt đến sự an ổn, có thể thuyết diệu pháp, với giáo lý ngoại đạo được khởi lên có thể khéo nhiếp phục với giáo pháp của mình, có thể thuyết diệu pháp bất tư nghì.
Alaṁ samakkhātuṁ saddhammassa, alaṁ uppannaṁ parappavādaṁ sahadhammehi suniggahitaṁ niggahetvā sappāṭihāriyaṁ dhammaṁ desetuṁ.

có Trung lạp Tỷ kheo đệ tử, …
Majjhimā cassa bhikkhū sāvakā honti …

có Hạ lạp Tỷ kheo đệ tử …
navā cassa bhikkhū sāvakā honti …

có Trưởng lão Ni đệ tử …
therā cassa bhikkhuniyo sāvikā honti …

có Trung lạp Ni đệ tử …
majjhimā cassa bhikkhuniyo sāvikā honti …

có Hạ lạp Ni đệ tử …
navā cassa bhikkhuniyo sāvikā honti …

có Nam cư sĩ đệ tử, những vị tại gia, mặc áo trắng, sống theo phạm hạnh,
upāsakā cassa sāvakā honti … gihī odātavasanā brahmacārino.

có Nam cư sĩ đệ tử, những vị tại gia, mặc áo trắng, chấp nhận dục lạc,
Upāsakā cassa sāvakā honti gihī odātavasanā kāmabhogino …

có Nữ cư sĩ đệ tử, những vị tại gia, mặc áo trắng, sống theo phạm hạnh,
upāsikā cassa sāvikā honti gihiniyo odātavasanā brahmacāriniyo …

có những vị Nữ cư sĩ đệ tử, những vị tại gia, mặc áo trắng, chấp nhận dục lạc;
upāsikā cassa sāvikā honti gihiniyo odātavasanā kāmabhoginiyo …

Phạm hạnh như vậy được thành công, hưng thịnh, phát triển, và phổ thông một cách rộng rãi, khéo tuyên bố giữa thiên nhân, đạt được danh xưng và lợi dưỡng một cách tối thắng,
brahmacariyañcassa hoti iddhañceva phītañca vitthārikaṁ bāhujaññaṁ puthubhūtaṁ yāva devamanussehi suppakāsitaṁ, lābhaggappattañca yasaggappattañca.

Phạm hạnh như vậy được viên mãn về phương diện này.
Evaṁ taṁ brahmacariyaṁ paripūraṁ hoti tenaṅgena.

Này Cunda, nay Ta hiện tại là bậc Ðạo sư xuất hiện ở đời, là bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác
Ahaṁ kho pana, cunda, etarahi satthā loke uppanno arahaṁ sammāsambuddho.

Và pháp được khéo tuyên bố, khéo trình bày, có hiệu năng hướng dẫn, hướng đến an tịnh, được vị Chánh Ðẳng Giác trình bày.
Dhammo ca svākkhāto suppavedito niyyāniko upasamasaṁvattaniko sammāsambuddhappavedito.

Và các vị đệ tử của Ta tinh thông diệu pháp, và phạm hạnh hoàn toàn viên mãn được tỏ lộ với tất cả thứ bậc vị trí liên hệ, được trở thành diệu dụng, được khéo trình giữa thiên nhân.
Viññāpitatthā ca me sāvakā saddhamme, kevalañca tesaṁ paripūraṁ brahmacariyaṁ āvikataṁ uttānīkataṁ sabbasaṅgāhapadakataṁ sappāṭihīrakataṁ yāva devamanussehi suppakāsitaṁ.

Này Cunda, nay Ta là vị Ðạo sư Trưởng lão, có nhiều kinh nghiệm, xuất gia đã lâu ngay, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến tuổi trưởng thành.
Ahaṁ kho pana, cunda, etarahi satthā thero rattaññū cirapabbajito addhagato vayoanuppatto.

Này Cunda, nay Ta có những vị Thượng tọa Tỷ kheo đệ tử sáng suốt, tự biết điều phục, vô úy, đa văn, đã đạt đến sự an ổn, có thể thuyết diệu pháp, đối với giáo lý ngoại đạo được khởi lên, có thể khéo thuyết phục với giáo pháp của mình, có thể thuyết diệu pháp bất khả tư nghì.
Santi kho pana me, cunda, etarahi therā bhikkhū sāvakā honti viyattā vinītā visāradā pattayogakkhemā. Alaṁ samakkhātuṁ saddhammassa, alaṁ uppannaṁ parappavādaṁ sahadhammehi suniggahitaṁ niggahetvā sappāṭihāriyaṁ dhammaṁ desetuṁ.

Này Cunda, Ta lại có những Trung lạp Tỷ kheo sáng suốt…
Santi kho pana me, cunda, etarahi majjhimā bhikkhū sāvakā …

Này Cunda, nay Ta có những vị Hạ lạp Tỷ kheo đệ tử …
santi kho pana me, cunda, etarahi navā bhikkhū sāvakā …

Này Cunda, nay Ta có những vị Trưởng lão Tỷ kheo ni đệ tử…
santi kho pana me, cunda, etarahi therā bhikkhuniyo sāvikā …

Này Cunda, nay Ta có những vị Trung lạp Tỷ kheo ni đệ tử…
santi kho pana me, cunda, etarahi majjhimā bhikkhuniyo sāvikā …

Này Cunda, nay Ta có những vị Hạ lạp Tỷ kheo ni đệ tử…
santi kho pana me, cunda, etarahi navā bhikkhuniyo sāvikā …

Này Cunda, nay Ta có những vị Nam cư sĩ, là những vị tại gia, mặc áo trắng, sống theo phạm hạnh…
santi kho pana me, cunda, etarahi upāsakā sāvakā gihī odātavasanā brahmacārino …

Này Cunda, nay Ta có những vị Nam cư sĩ, là những vị tại gia mặc áo trắng, chấp nhận dục lạc…
santi kho pana me, cunda, etarahi upāsakā sāvakā gihī odātavasanā kāmabhogino …

Này Cunda, nay Ta có những vị Nữ cư sĩ, là những vị tại gia, mặc áo trắng, sống theo phạm hạnh…
santi kho pana me, cunda, etarahi upāsikā sāvikā gihiniyo odātavasanā brahmacāriniyo …

Này Cunda, nay Ta có những vị Nữ cư sĩ là những vị tại gia, mặc áo trắng chấp nhận dục lạc…
santi kho pana me, cunda, etarahi upāsikā sāvikā gihiniyo odātavasanā kāmabhoginiyo …

Này Cunda, nay Phạm hạnh của Ta được thành công, hưng thịnh, phát triển, và phổ thông một cách rộng rãi, khéo tuyên bố giữa thiên nhân.
etarahi kho pana me, cunda, brahmacariyaṁ iddhañceva phītañca vitthārikaṁ bāhujaññaṁ puthubhūtaṁ yāva devamanussehi suppakāsitaṁ.

Này Cunda, đối với tất cả những vị đạo sĩ nay xuất hiện ở đời; này Cunda, Ta không thấy một vị đạo sư nào khác có thể bằng Ta về phương diện lợi dưỡng và danh xưng tối thượng.
Yāvatā kho, cunda, etarahi satthāro loke uppannā, nāhaṁ, cunda, aññaṁ ekasatthārampi samanupassāmi evaṁlābhaggayasaggappattaṁ yatharivāhaṁ.

Này Cunda, đối với tất cả các đoàn thể, các hội chúng nay xuất hiện ở đời; này Cunda, Ta không thấy một đoàn thể nào khác có thể bằng đoàn thể Tỷ-kheo về phương diện lợi dưỡng và danh xưng tối thượng.
Yāvatā kho pana, cunda, etarahi saṅgho vā gaṇo vā loke uppanno; nāhaṁ, cunda, aññaṁ ekasaṅghampi samanupassāmi evaṁlābhaggayasaggappattaṁ yatharivāyaṁ, cunda, bhikkhusaṅgho.

Nếu có ai tuyên bố đúng đắn sẽ tuyên bố như sau:
Yaṁ kho taṁ, cunda, sammā vadamāno vadeyya:

Thành tựu hết thảy tướng, không thiếu sót, không quá đáng, phạm hạnh được khéo tuyên bố một cách viên mãn,,
‘sabbākārasampannaṁ sabbākāraparipūraṁ anūnamanadhikaṁ svākkhātaṁ kevalaṁ paripūraṁ brahmacariyaṁ suppakāsitan’ti.

Vị ấy nếu tuyên bố đúng đắn sẽ tuyên bố như sau:
Idameva taṁ sammā vadamāno vadeyya:

“Thành tựu hết thảy tướng… phạm hạnh được khéo tuyên bố”.
‘sabbākārasampannaṁ …pe… suppakāsitan’ti.

Này Cunda, Uddaka con của Rāma thường nói:
Udako sudaṁ, cunda, rāmaputto evaṁ vācaṁ bhāsati:

‘Thấy mà không thấy.’
‘passaṁ na passatī’ti.

Thấy cái gì mà không thấy?
Kiñca passaṁ na passatīti?

Với một con dao sắc bén, chỉ thấy lưỡi dao không thấy khía cạnh sắc bén của dao.
Khurassa sādhunisitassa talamassa passati, dhārañca khvassa na passati.

Này Cunda, đấy là nghĩa của câu:
Idaṁ vuccati:

‘Thấy mà không thấy.’
‘passaṁ na passatī’ti.

Này Cunda, ở đây Uddaka con của Rāma đề cập đến một vật đê tiện, hạ liệt, thuộc về phàm phu, không xứng bậc Thánh, không có lợi ích, nói về con dao.
Yaṁ kho panetaṁ, cunda, udakena rāmaputtena bhāsitaṁ hīnaṁ gammaṁ pothujjanikaṁ anariyaṁ anatthasaṁhitaṁ khurameva sandhāya.

Này Cunda, nếu nói đúng đắn câu:
Yañca taṁ, cunda, sammā vadamāno vadeyya:

‘Thấy mà không thấy,’ thời phải nói như sau:
‘passaṁ na passatī’ti, idameva taṁ sammā vadamāno vadeyya:

Thấy mà không thấy
‘passaṁ na passatī’ti.

Vị ấy thấy cái gì mà không thấy?
Kiñca passaṁ na passatīti?

Chính vị ấy thấy phạm hạnh này: Một phạm hạnh, thành tựu hết thảy tướng, đầy đủ hết thảy tướng, không thiếu sót, không quá đáng, được khéo tuyên bố một cách viên mãn, được khéo trình bày.
Evaṁ sabbākārasampannaṁ sabbākāraparipūraṁ anūnamanadhikaṁ svākkhātaṁ kevalaṁ paripūraṁ brahmacariyaṁ suppakāsitanti, iti hetaṁ passati.

Nếu vị ấy trừ bớt một phương diện nào tại một chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy sẽ được rõ ràng hơn, vị ấy sẽ không thấy gì.
Idamettha apakaḍḍheyya, evaṁ taṁ parisuddhataraṁ assāti, iti hetaṁ na passati.

Nếu vị ấy thêm vào một phương diện nào tại chỗ nào, nghĩ rằng làm vậy sẽ được rõ ràng hơn, vị ấy sẽ không thấy gì.
Idamettha upakaḍḍheyya, evaṁ taṁ paripūraṁ assāti, iti hetaṁ na passati.

Này, Cunda, như vậy gọi là:
Idaṁ vuccati, cunda:

‘Thấy mà không thấy.’
‘passaṁ na passatī’ti.

Này Cunda, nếu có ai khi tả một phạm hạnh thành tựu hết thảy tướng… phạm hạnh được khéo tuyên bố, vị ấy sẽ tuyên bố đúng đắn như sau:
Yaṁ kho taṁ, cunda, sammā vadamāno vadeyya: ‘sabbākārasampannaṁ …pe…brahmacariyaṁ suppakāsitan’ti. Idameva taṁ sammā vadamāno vadeyya:

‘Phạm hạnh này thành tựu hết thảy tướng, cụ túc hết thảy tướng, không thiếu thốn, không quá đáng, được khéo tuyên bố một cách viên mãn, được khéo trình bày.’
‘sabbākārasampannaṁ sabbākāraparipūraṁ anūnamanadhikaṁ svākkhātaṁ kevalaṁ paripūraṁ brahmacariyaṁ suppakāsitan’ti.

6. Hội Họp Tụng Đọc Giáo Pháp
6. Saṅgāyitabbadhamma

Do vậy, này Cunda, những pháp do Ta tự chứng tri và tuyên bố cho các Ngươi, tất cả các Ngươi hãy hội họp lại và tụng đọc lại, chớ có cãi lộn nhau, nhưng hãy so sánh các nghĩa với nhau, các câu với nhau để cho phạm hạnh này được tồn tại lâu dài, được an trú lâu dài, vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và cho loài Người.
Tasmātiha, cunda, ye vo mayā dhammā abhiññā desitā, tattha sabbeheva saṅgamma samāgamma atthena atthaṁ byañjanena byañjanaṁ saṅgāyitabbaṁ na vivaditabbaṁ, yathayidaṁ brahmacariyaṁ addhaniyaṁ assa ciraṭṭhitikaṁ, tadassa bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṁ.

Này Cunda, thế nào là những pháp do Ta tự chứng tri và tuyên bố cho các Ngươi, tất cả các Ngươi hãy hội họp lại và tụng đọc lại, chớ có cãi lộn nhau, nhưng hãy so sánh các nghĩa với nhau, các câu với nhau, để cho phạm hạnh này được tồn tại lâu dài, được an trú lâu dài, vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và cho loài Người?
Katame ca te, cunda, dhammā mayā abhiññā desitā, yattha sabbeheva saṅgamma samāgamma atthena atthaṁ byañjanena byañjanaṁ saṅgāyitabbaṁ na vivaditabbaṁ, yathayidaṁ brahmacariyaṁ addhaniyaṁ assa ciraṭṭhitikaṁ, tadassa bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṁ?

Những pháp ấy là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Như ý túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác chi, Tám Thánh đạo.
Seyyathidaṁ—cattāro satipaṭṭhānā, cattāro sammappadhānā, cattāro iddhipādā, pañcindriyāni, pañca balāni, satta bojjhaṅgā, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo.

Này Cunda, những pháp ấy do Ta tự chứng tri và tuyên bố cho các Ngươi, tất cả Ngươi hãy hội họp lại và tụng đọc lại, chớ có cãi lộn nhau, nhưng hãy so sánh các nghĩa với nhau, các câu với nhau, để cho phạm hạnh này được tồn tại lâu dài, được an trú lâu dài, vì hạnh phúc của muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư Thiên và cho loài Người.
Ime kho te, cunda, dhammā mayā abhiññā desitā. Yattha sabbeheva saṅgamma samāgamma atthena atthaṁ byañjanena byañjanaṁ saṅgāyitabbaṁ na vivaditabbaṁ, yathayidaṁ brahmacariyaṁ addhaniyaṁ assa ciraṭṭhitikaṁ, tadassa bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṁ.

7. Hướng Tới Sự Đồng Thuận
7. Saññāpetabbavidhi

Này Cunda, các Ngươi hãy hội họp với nhau trong tinh thần hòa đồng và tương kính, không có tranh luận nhau. Có vị đồng phạm hạnh nói pháp giữa Tăng chúng.
Tesañca vo, cunda, samaggānaṁ sammodamānānaṁ avivadamānānaṁ sikkhataṁ aññataro sabrahmacārī saṅghe dhammaṁ bhāseyya.

Nếu các Ngươi nghĩ rằng,
Tatra ce tumhākaṁ evamassa:

‘Vị Ðại đức này nắm nghĩa sai lạc hay hành văn sai lạc.’
‘ayaṁ kho āyasmā atthañceva micchā gaṇhāti, byañjanāni ca micchā ropetī’ti.

Các Ngươi không nên tán thán, không nên bác bỏ. Không tán thán không bác bỏ, các Ngươi nên nói với vị ấy:
Tassa neva abhinanditabbaṁ na paṭikkositabbaṁ, anabhinanditvā appaṭikkositvā so evamassa vacanīyo:

‘Này Hiền giả, với nghĩa này, cách hành văn này hay cách hành văn kia, cách nào thích hợp hơn? Giữa những cách hành văn này, nghĩa này hay nghĩa kia, nghĩa nào thích hợp hơn?’
‘imassa nu kho, āvuso, atthassa imāni vā byañjanāni etāni vā byañjanāni katamāni opāyikatarāni, imesañca byañjanānaṁ ayaṁ vā attho eso vā attho katamo opāyikataro’ti?

Nếu vị ấy trả lời:
So ce evaṁ vadeyya:

‘Này Hiền giả, với nghĩa này, cách hành văn này thích hợp hơn cách hành văn kia. Giữa những cách hành văn này, nghĩa này thích hợp hơn nghĩa kia.’
‘imassa kho, āvuso, atthassa imāneva byañjanāni opāyikatarāni, yā ceva etāni; imesañca byañjanānaṁ ayameva attho opāyikataro, yā ceva eso’ti.

Các Ngươi không nên bác bỏ vị ấy, không nên phỉ báng vị ấy. Không bác bỏ, không phỉ báng, các Ngươi phải giải thích cho vị ấy một cách cẩn thận cả nghĩa lẫn hành văn.
So neva ussādetabbo na apasādetabbo, anussādetvā anapasādetvā sveva sādhukaṁ saññāpetabbo tassa ca atthassa tesañca byañjanānaṁ nisantiyā.

Lại nữa này Cunda, có vị đồng phạm hạnh khác nói pháp giữa Tăng chúng.
Aparopi ce, cunda, sabrahmacārī saṅghe dhammaṁ bhāseyya.

Nếu các Ngươi nghĩ rằng:
Tatra ce tumhākaṁ evamassa:

‘Vị Ðại đức ấy nắm nghĩa sai lạc nhưng hành văn đúng đắn.’
‘ayaṁ kho āyasmā atthañhi kho micchā gaṇhāti byañjanāni sammā ropetī’ti.

Các Ngươi không nên tán thán, không nên bác bỏ. Không thán thán, không bác bỏ, các ngươi nên nói với vị ấy:
Tassa neva abhinanditabbaṁ na paṭikkositabbaṁ, anabhinanditvā appaṭikkositvā so evamassa vacanīyo:

‘Này Hiền giả, giữa những cách hành văn này, nghĩa này hay nghĩa kia, nghĩa nào thích hợp hơn?’
‘imesaṁ nu kho, āvuso, byañjanānaṁ ayaṁ vā attho eso vā attho katamo opāyikataro’ti?

Nếu vị ấy trả lời:
So ce evaṁ vadeyya:

‘Này Hiền giả, giữa những cách hành văn này, nghĩa này thích hợp hơn nghĩa kia.’
‘imesaṁ kho, āvuso, byañjanānaṁ ayameva attho opāyikataro, yā ceva eso’ti.

Các Ngươi không nên bác bỏ, không phỉ báng, các Ngươi phải giải thích một cách cẩn thận ý nghĩa đúng đắn cho vị ấy.
So neva ussādetabbo na apasādetabbo, anussādetvā anapasādetvā sveva sādhukaṁ saññāpetabbo tasseva atthassa nisantiyā.

Này Cunda, có vị đồng phạm hạnh khác nói pháp giữa Tăng chúng.
Aparopi ce, cunda, sabrahmacārī saṅghe dhammaṁ bhāseyya.

Nếu các Ngươi nghĩ rằng:
Tatra ce tumhākaṁ evamassa:

‘Vị Ðại đức này nắm nghĩa đúng đắn, nhưng hành văn sai lạc.’
‘ayaṁ kho āyasmā atthañhi kho sammā gaṇhāti byañjanāni micchā ropetī’ti.

Các Ngươi không nên tán thán, không nên bác bỏ. Không tán thán không bác bỏ, các Ngươi nên nói với vị ấy:
Tassa neva abhinanditabbaṁ na paṭikkositabbaṁ; anabhinanditvā appaṭikkositvā so evamassa vacanīyo:

‘Này Hiền giả, giữa những cách hành văn này, nghĩa này hay nghĩa kia, nghĩa nào thích hợp hơn?’
‘imassa nu kho, āvuso, atthassa imāni vā byañjanāni etāni vā byañjanāni katamāni opāyikatarānī’ti?

Nếu vị ấy trả lời:
So ce evaṁ vadeyya:

‘Giữa những cách hành văn này, nghĩa này thích hợp hơn nghĩa kia.’
‘imassa kho, āvuso, atthassa imāneva byañjanāni opayikatarāni, yā ceva etānī’ti.

Các Ngươi không nên bác bỏ vị ấy, không nên phỉ báng vị ấy. Không bác bỏ, không phỉ báng, các ngươi phải giải thích một cách cẩn thận cách hành văn cho vị ấy.
So neva ussādetabbo na apasādetabbo; anussādetvā anapasādetvā sveva sādhukaṁ saññāpetabbo tesaññeva byañjanānaṁ nisantiyā.

Này Cunda, có vị đồng phạm hạnh khác nói pháp giữa Tăng chúng.
Aparopi ce, cunda, sabrahmacārī saṅghe dhammaṁ bhāseyya.

Nếu các Ngươi nghĩ rằng:
Tatra ce tumhākaṁ evamassa:

‘Vị Ðại đức này nắm nghĩa đúng đắn và hành văn đúng đắn.’
‘ayaṁ kho āyasmā atthañceva sammā gaṇhāti byañjanāni ca sammā ropetī’ti.

các Ngươi nên tán đồng và tán thán vị ấy với câu: “Thật là tốt đẹp”,
Tassa ‘sādhū’ti bhāsitaṁ abhinanditabbaṁ anumoditabbaṁ;

Các Ngươi phải nói với vị ấy” “Thật là tốt đẹp”, các Ngươi phải nói với vị ấy:
tassa ‘sādhū’ti bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā so evamassa vacanīyo:

‘Này Hiền giả thật là lợi ích cho chúng tôi, này Hiền giả thật là lợi ích cho chúng tôi; này Hiền giả, thật là may mắn cho chúng tôi; này Hiền giả, thật là may mắn cho chúng tôi, khi chúng tôi thấy một vị đồng phạm hạnh như Hiền giả, tinh thông nghĩa lý như vậy, tinh thông hành văn như vậy!’
‘lābhā no, āvuso, suladdhaṁ no, āvuso, ye mayaṁ āyasmantaṁ tādisaṁ sabrahmacāriṁ passāma evaṁ atthupetaṁ byañjanupetan’ti.

8. Lý Do Cho Phép Sử Dụng Vật Thiết Yếu
8. Paccayānuññātakāraṇa

Này Cunda Ta không thuyết giảng chỉ để ngăn chận các lậu hoặc ngay trong hiện tại.
Na vo ahaṁ, cunda, diṭṭhadhammikānaṁyeva āsavānaṁ saṁvarāya dhammaṁ desemi.

Này Cunda, Ta không thuyết pháp, chỉ để diệt trừ các lậu hoặc trong tương lai mà thôi.
Na panāhaṁ, cunda, samparāyikānaṁyeva āsavānaṁ paṭighātāya dhammaṁ desemi.

Này Cunda, Ta thuyết pháp vừa để ngăn chận các lậu hoặc ngay trong hiện tại mà cũng để diệt trừ các lậu hoặc trong tương lai nữa.
Diṭṭhadhammikānaṁ cevāhaṁ, cunda, āsavānaṁ saṁvarāya dhammaṁ desemi; samparāyikānañca āsavānaṁ paṭighātāya.

Do vậy, này Cunda, tấm y mà Ta cho phép các Ngươi mặc, như vậy vừa đủ cho các Ngươi ngăn chận lạnh, ngăn chận nóng, ngăn chận sự xúc chạm của các loài ruồi muỗi, của gió, mặt trời và các loài rắn, và các che dấu sự hổ thẹn.
Tasmātiha, cunda, yaṁ vo mayā cīvaraṁ anuññātaṁ, alaṁ vo taṁ yāvadeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, ḍaṁsamakasavātātapasarīsapasamphassānaṁ paṭighātāya, yāvadeva hirikopīnapaṭicchādanatthaṁ.

Các món ăn khất thực mà Ta cho phép các Ngươi dùng, như vậy vừa đủ để nuôi dưỡng thân thể, giúp thân thể sống còn, tránh khỏi nguy hại và giúp đời sống phạm hạnh với hy vọng: “Như vậy ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới. Nhờ vậy đời sống của ta mới khỏi bị lầm lỗi và ta sống an lạc.”
Yo vo mayā piṇḍapāto anuññāto, alaṁ vo so yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṁsūparatiyā brahmacariyānuggahāya, iti purāṇañca vedanaṁ paṭihaṅkhāmi, navañca vedanaṁ na uppādessāmi, yātrā ca me bhavissati anavajjatā ca phāsuvihāro ca.

Nhà cửa nào mà Ta cho phép các ngươi an trú, như vậy vừa đủ cho các Ngươi ngăn chận lạnh, ngăn chận nóng, ngăn chận sự xúc chạm của ruồi muỗi, gió, mặt trời và các loài rắn, chỉ với mục đích tránh thoát sự nguy hiểm của thời tiết, và an hưởng đời sống tịnh cư.
Yaṁ vo mayā senāsanaṁ anuññātaṁ, alaṁ vo taṁ yāvadeva sītassa paṭighātāya, uṇhassa paṭighātāya, ḍaṁsamakasavātātapasarīsapasamphassānaṁ paṭighātāya, yāvadeva utuparissayavinodanapaṭisallānārāmatthaṁ.

Các dược phẩm và thuốc trị bịnh mà Ta cho phép các Ngươi dùng, như vậy vừa đủ để ngăn chận các cảm thọ đau ốm khởi lên và để gìn giữ sức khỏe.
Yo vo mayā gilānapaccayabhesajjaparikkhāro anuññāto, alaṁ vo so yāvadeva uppannānaṁ veyyābādhikānaṁ vedanānaṁ paṭighātāya abyāpajjaparamatāya.

9. Đam Mê Hỷ Lạc
9. Sukhallikānuyoga

Này Cunda, sự kiện này có thể xảy ra, các du sĩ ngoại đạo có thể nói:
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, cunda, vijjati yaṁ aññatitthiyā paribbājakā evaṁ vadeyyuṁ:

‘Các Sa-môn Thích tử sống đam mê hỷ lạc.’
‘sukhallikānuyogamanuyuttā samaṇā sakyaputtiyā viharantī’ti.

Này Cunda, nếu được nói như vậy, các du sĩ ngoại đạo phải được trả lời như vậy:
Evaṁvādino, cunda, aññatitthiyā paribbājakā evamassu vacanīyā:

‘Này Hiền giả, thế nào là đam mê hỷ lạc?
‘katamo so, āvuso, sukhallikānuyogo?

Ðam mê hỷ lạc có nhiều loại, có nhiều cách.’
Sukhallikānuyogā hi bahū anekavihitā nānappakārakā’ti.

Này Cunda, bốn loại đam mê hỷ lạc này là thấp kém, hạ liệt, thuộc phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không có lợi ích, không hướng đến yểm ly, vô tham, tich diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn.
Cattārome, cunda, sukhallikānuyogā hīnā gammā pothujjanikā anariyā anatthasaṁhitā na nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṁvattanti.

Thế nào là bốn?
Katame cattāro?

Này Cunda, ở đây có người ngu si, sau khi sát sanh, tự mình sung sướng hoan hỷ.
Idha, cunda, ekacco bālo pāṇe vadhitvā vadhitvā attānaṁ sukheti pīṇeti.

Đó là hỷ lạc thứ nhất.
Ayaṁ paṭhamo sukhallikānuyogo.

Lại nữa, này Cunda, ở đây có người sau khi lấy của không cho, tự mình sung sướng, hoan hỷ.
Puna caparaṁ, cunda, idhekacco adinnaṁ ādiyitvā ādiyitvā attānaṁ sukheti pīṇeti.

Đó là hỷ lạc thứ hai.
Ayaṁ dutiyo sukhallikānuyogo.

Lại nữa, này Cunda, ở đây có người sau khi nói láo, tự mình sung sướng, hoan hỷ.
Puna caparaṁ, cunda, idhekacco musā bhaṇitvā bhaṇitvā attānaṁ sukheti pīṇeti.

Đó là hỷ lạc thứ ba.
Ayaṁ tatiyo sukhallikānuyogo.

Lại nữa này Cunda, ở đây có người say đắm, đam mê sống vây quanh với năm món dục lạc.
Puna caparaṁ, cunda, idhekacco pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgībhūto paricāreti.

Đó là hỷ lạc thứ tư.
Ayaṁ catuttho sukhallikānuyogo.

Này Cunda, bốn loại hỷ lạc này là thấp kém, hạ liệt, thuộc phàm phu, không xứng Thánh hạnh, không có lợi ích, không hướng đến yểm ly, vô tham, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn.
Ime kho, cunda, cattāro sukhallikānuyogā hīnā gammā pothujjanikā anariyā anatthasaṁhitā na nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṁvattanti.

Này Cunda, sự kiện này có thể xảy ra, các ngoại đạo có thể hỏi:
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, cunda, vijjati yaṁ aññatitthiyā paribbājakā evaṁ vadeyyuṁ:

‘Các Sa-môn Thích tử có phải sống đam mê bốn loại hỷ lạc này không?.’
‘ime cattāro sukhallikānuyoge anuyuttā samaṇā sakyaputtiyā viharantī’ti.

Họ cần phải được trả lời: “Chớ có nói như vậy.
Te vo ‘mā hevaṁ’ tissu vacanīyā.

Các ông nói như vậy là nói không đúng đắn. Nói như vậy là các ông xuyên tạc, không đúng sự thật, không thực có.
Na te vo sammā vadamānā vadeyyuṁ, abbhācikkheyyuṁ asatā abhūtena.

Này Cunda, có bốn loại hỷ lạc nhất định đưa đến yểm ly, vô tham, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Cattārome, cunda, sukhallikānuyogā ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṁvattanti.

Thế nào là bốn?
Katame cattāro?

Này Cunda, ở đây vị Tỷ-kheo, ly dục, ly ác pháp, chứng và an trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ.
Idha, cunda, bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṁ savicāraṁ vivekajaṁ pītisukhaṁ paṭhamaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.

Ðó là hỷ lạc thứ nhất.
Ayaṁ paṭhamo sukhallikānuyogo.

Lại nữa này Cunda, vị Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
Puna caparaṁ, cunda, bhikkhu vitakkavicārānaṁ vūpasamā …pe… dutiyaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.

Ðó là hỷ lạc thứ hai.
Ayaṁ dutiyo sukhallikānuyogo.

Lại nữa này Cunda, vị Tỷ-kheo ly hỷ trú xả … chứng và trú Thiền thứ ba…
Puna caparaṁ, cunda, bhikkhu pītiyā ca virāgā …pe… tatiyaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.

Ðó là hỷ lạc thứ ba.
Ayaṁ tatiyo sukhallikānuyogo.

Lại nữa này Cunda, vị Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ … chứng và trú Thiền thứ tư …
Puna caparaṁ, cunda, bhikkhu sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā …pe… catutthaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.

Ðó là hỷ lạc thứ tư.
Ayaṁ catuttho sukhallikānuyogo.

Này Cunda, bốn loại hỷ lạc nhất định đưa đến yểm ly, vô tham, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
Ime kho, cunda, cattāro sukhallikānuyogā ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṁvattanti.

Này Cunda, sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ ngoại đạo có thể nói:
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, cunda, vijjati yaṁ aññatitthiyā paribbājakā evaṁ vadeyyuṁ:

‘Các vị Sa-môn Thích tử đang sống đam mê bốn loại hỷ lạc này.’
‘ime cattāro sukhallikānuyoge anuyuttā samaṇā sakyaputtiyā viharantī’ti.

Họ cần phải được trả lời: “Nói như vậy là phải;
Te vo ‘evaṁ’ tissu vacanīyā.

Các ông nói như vậy là nói đúng đắn. Nói như vậy là các ông không xuyên tạc, đúng sự thật, và thực có.
Sammā te vo vadamānā vadeyyuṁ, na te vo abbhācikkheyyuṁ asatā abhūtena.

10. Lợi Ích Đam Mê Hỷ Lạc
10. Sukhallikānuyogānisaṁsa

Này Cunda, sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ ngoại đạo có thể nói:
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, cunda, vijjati, yaṁ aññatitthiyā paribbājakā evaṁ vadeyyuṁ:

‘Này Hiền giả, những ai sống đam mê theo bốn loại hỷ lạc ấy có thể mong đợi kết quả gì, lợi ích gì?’
‘ime panāvuso, cattāro sukhallikānuyoge anuyuttānaṁ viharataṁ kati phalāni katānisaṁsā pāṭikaṅkhā’ti?

Ðược nói vậy, phải trả lời cho các du sĩ ngoại đạo như sau:
Evaṁvādino, cunda, aññatitthiyā paribbājakā evamassu vacanīyā:

‘Này Hiền giả, những ai sống đam mê bốn loại hỷ lạc ấy, có thể mong đợi bốn kết quả, bốn sự lợi ích.
‘ime kho, āvuso, cattāro sukhallikānuyoge anuyuttānaṁ viharataṁ cattāri phalāni cattāro ānisaṁsā pāṭikaṅkhā.

Thế nào là bốn?
Katame cattāro?

Này Hiền giả, ở đây, vị Tỷ-kheo diệt trừ ba kiết sử, được nhập vào dòng Thánh, không còn bị đọa lạc, nhất định sẽ được giác ngộ.
Idhāvuso, bhikkhu tiṇṇaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā sotāpanno hoti avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo.

Ðó là kết quả thứ nhất.
Idaṁ paṭhamaṁ phalaṁ, paṭhamo ānisaṁso.

Lại nữa này Hiền giả, vị Tỷ-kheo diệt trừ ba kiết sử, làm muội lược tham, sân, si, chứng bậc Nhất lai, chỉ còn trở lại đời này một lần nữa trước khi diệt tận khổ đau.
Puna caparaṁ, āvuso, bhikkhu tiṇṇaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā rāgadosamohānaṁ tanuttā sakadāgāmī hoti, sakideva imaṁ lokaṁ āgantvā dukkhassantaṁ karoti.

Ðó là kết quả thứ hai, lợi ích thứ hai.
Idaṁ dutiyaṁ phalaṁ, dutiyo ānisaṁso.

Lại nữa, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo diệt trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh ở tại chỗ ấy mà nhập Niết-bàn, không còn phải trở lại đời này nữa.
Puna caparaṁ, āvuso, bhikkhu pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā opapātiko hoti, tattha parinibbāyī anāvattidhammo tasmā lokā.

Như vậy là kết quả thứ ba, lợi ích thứ ba.
Idaṁ tatiyaṁ phalaṁ, tatiyo ānisaṁso.

Lại nữa, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo diệt trừ các lậu hoặc, tự mình chứng tri, chứng ngộ và an trú ngay trong hiện tại vô lậu Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát.
Puna caparaṁ, āvuso, bhikkhu āsavānaṁ khayā anāsavaṁ cetovimuttiṁ paññāvimuttiṁ diṭṭheva dhamme sayaṁ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati.

Như vậy là kết quả thứ tư.
Idaṁ catutthaṁ phalaṁ catuttho ānisaṁso.

Này Hiền giả, vị nào sống đam mê bốn loại hỷ lạc này, có thể mong đợi bốn kết quả, bốn lợi ích như vậy.’
Ime kho, āvuso, cattāro sukhallikānuyoge anuyuttānaṁ viharataṁ imāni cattāri phalāni, cattāro ānisaṁsā pāṭikaṅkhā’ti.

11. Điều Không Thể Xảy Ra Ở Bậc Giác Ngộ
11. Khīṇāsavaabhabbaṭhāna

Này Cunda, sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ ngoại đạo có thể nói:
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, cunda, vijjati yaṁ aññatitthiyā paribbājakā evaṁ vadeyyuṁ:

‘Các Sa-môn Thích tử sống không giữ vững lập trường.’
‘aṭṭhitadhammā samaṇā sakyaputtiyā viharantī’ti.

Này Cunda, các vị du sĩ ngoại đạo nói vậy cần phải được trả lời như sau:
Evaṁvādino, cunda, aññatitthiyā paribbājakā evamassu vacanīyā:

‘Này Hiền giả, Thế Tôn, vị đã biết, đã thấy, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã thuyết, đã trình bày những pháp cho các đệ tử cho đến trọn đời.
‘atthi kho, āvuso, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sāvakānaṁ dhammā desitā paññattā yāvajīvaṁ anatikkamanīyā.

Này Hiền giả, giống như cột trụ bằng đá hay bằng sắt, chân cột được khéo chôn sâu vào đất, không lắc qua lại, không có rung động.
Seyyathāpi, āvuso, indakhīlo vā ayokhīlo vā gambhīran emo sunikhāto acalo asampavedhī;

Cũng vậy này Hiền giả, Thế Tôn, vị đã biết, đã thấy là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã thuyết, đã trình bày những pháp cho các đệ tử cho đến trọn đời.
evameva kho, āvuso, tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sāvakānaṁ dhammā desitā paññattā yāvajīvaṁ anatikkamanīyā.

Này Hiền giả, vị Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, đã diệt trừ các lậu hoặc, phạm hạnh đã thành, các việc phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, mục tiêu đã đạt, hữu kiết sử đã diệt trừ, chánh trí giải thoát, không thể làm chín việc sau đây:
Yo so, āvuso, bhikkhu arahaṁ khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṁyojano sammadaññāvimutto, abhabbo so nava ṭhānāni ajjhācarituṁ.

Này Hiền giả, vị Tỷ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc, không thể cố ý tước đoạt sanh mạng của loài hữu tình; vị Tỷ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc không thể lấy của không cho, tức là ăn trộm; vị Tỷ kheo đã diệt trừ các lậu hoặc không thể hành dâm; vị Tỷ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc, không thể biết mà nói láo; vị Tỷ-kheo đã diệt trừ các lậu hoặc không thể cất chứa tiền của để hưởng thọ dục lạc, như khi còn tại gia; vị Tỷ-kheo đã diệt tận các lậu hoặc không thể đi con đường hành tham; vị Tỷ-kheo đã diệt tận các lậu hoặc không thể đi con đường hành sân; vị Tỷ-kheo đã diệt tận các lậu hoặc, không thể đi con đường hành si; vị Tỷ-kheo đã diệt tận các lậu hoặc, không thể đi con đường hành theo sợ hãi.
Abhabbo, āvuso, khīṇāsavo bhikkhu sañcicca pāṇaṁ jīvitā voropetuṁ; abhabbo khīṇāsavo bhikkhu adinnaṁ theyyasaṅkhātaṁ ādiyituṁ; abhabbo khīṇāsavo bhikkhu methunaṁ dhammaṁ paṭisevituṁ; abhabbo khīṇāsavo bhikkhu sampajānamusā bhāsituṁ; abhabbo khīṇāsavo bhikkhu sannidhikārakaṁ kāme paribhuñjituṁ, seyyathāpi pubbe āgārikabhūto; abhabbo khīṇāsavo bhikkhu chandāgatiṁ gantuṁ; abhabbo khīṇāsavo bhikkhu dosāgatiṁ gantuṁ; abhabbo khīṇāsavo bhikkhu mohāgatiṁ gantuṁ; abhabbo khīṇāsavo bhikkhu bhayāgatiṁ gantuṁ.

Này Hiền giả, một vị Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, đã diệt tận các lậu hoặc, phạm hạnh đã thành, các việc phải làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, mục tiêu đã đạt, hữu kiết sử đã diệt trừ, chánh trí giải thoát, không thể làm chín việc như vậy.’
Yo so, āvuso, bhikkhu arahaṁ khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṁyojano sammadaññāvimutto, abhabbo so imāni nava ṭhānāni ajjhācaritun’ti.

12. Hỏi Đáp
12. Pañhābyākaraṇa

Này Cunda, sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ ngoại đạo có thể nói như sau:
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, cunda, vijjati, yaṁ aññatitthiyā paribbājakā evaṁ vadeyyuṁ:

‘Ðối với quá khứ, Sa-môn Gotama có tri kiến siêu việt. Nhưng đối với tương lai, Sa-môn Gotama không có tri kiến siêu việt; như sự việc xảy ra như thế nào và vì sao lại xảy ra như vậy?’
‘atītaṁ kho addhānaṁ ārabbha samaṇo gotamo atīrakaṁ ñāṇadassanaṁ paññapeti, no ca kho anāgataṁ addhānaṁ ārabbha atīrakaṁ ñāṇadassanaṁ paññapeti, tayidaṁ kiṁsu tayidaṁ kathaṁsū’ti?

Như vậy, các vị du sĩ ngoại đạo này chủ trương rằng tri kiến về vấn đề này có thể được trình bày nêu rõ bởi tri kiến một vấn đề khác, như những kẻ ngu si, không thông minh khác.
Te ca aññatitthiyā paribbājakā aññavihitakena ñāṇadassanena aññavihitakaṁ ñāṇadassanaṁ paññapetabbaṁ maññanti yathariva bālā abyattā.

Này Cunda, về vấn đề quá khứ, Như Lai có thể nhớ đến đời sống quá khứ.
Atītaṁ kho, cunda, addhānaṁ ārabbha tathāgatassa satānusāriñāṇaṁ hoti;

Ngài muốn như thế nào, Ngài có thể nhớ xa được như vậy.
so yāvatakaṁ ākaṅkhati tāvatakaṁ anussarati.

Về vấn đề vị lai, Như Lai có trí do tuệ sanh:
Anāgatañca kho addhānaṁ ārabbha tathāgatassa bodhijaṁ ñāṇaṁ uppajjati:

‘Ðây là đời sống cuối cùng, nay không còn đời sống nào khác nữa.’
‘ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavo’ti.

Này Cunda, nếu những gì thuộc quá khứ là hư vọng, không thật, không lợi ích, Như Lai không trả lời.
Atītañcepi, cunda, hoti abhūtaṁ atacchaṁ anatthasaṁhitaṁ, na taṁ tathāgato byākaroti.

Này Cunda, nếu những gì thuộc quá khứ là chơn chánh, như thật, nhưng không lợi ích, Như Lai cũng không trả lời.
Atītañcepi, cunda, hoti bhūtaṁ tacchaṁ anatthasaṁhitaṁ, tampi tathāgato na byākaroti.

Này Cunda, nếu những gì thuộc quá khứ là chơn chánh, như thật, có lợi ích, Như Lai biết thời trả lời câu hỏi ấy.
Atītañcepi, cunda, hoti bhūtaṁ tacchaṁ atthasaṁhitaṁ, tatra kālaññū tathāgato hoti tassa pañhassa veyyākaraṇāya.

Này Cunda, nếu những gì thuộc vị lai là hy vọng, không thật, không lợi ích, Như Lai không trả lời. Này Cunda, nếu những gì thuộc vị lai là chơn chánh, như thật, nhưng không lợi ích, Như Lai cũng không trả lời. Này Cunda, nếu những gì thuộc vị lai là chơn chánh, như thật, có lợi ích, Như Lai biết thời trả lời câu hỏi ấy một cách vắn tắt.
Anāgatañcepi, cunda, hoti abhūtaṁ atacchaṁ anatthasaṁhitaṁ, na taṁ tathāgato byākaroti …pe… tassa pañhassa veyyākaraṇāya.

Này Cunda, nếu những gì thuộc hiện tại là hư vọng, không thật, không lợi ích, Như Lai không trả lời.
Paccuppannañcepi, cunda, hoti abhūtaṁ atacchaṁ anatthasaṁhitaṁ, na taṁ tathāgato byākaroti.

Này Cunda, nếu những gì thuộc hiện tại và chơn chánh, như thật, nhưng không lợi ích, Như Lai cũng không trả lời.
Paccuppannañcepi, cunda, hoti bhūtaṁ tacchaṁ anatthasaṁhitaṁ, tampi tathāgato na byākaroti.

Này Cunda, nếu những gì thuộc hiện tại là chơn chánh, như thật, có lợi ích, Như Lai biết thời trả lời câu hỏi ấy.
Paccuppannañcepi, cunda, hoti bhūtaṁ tacchaṁ atthasaṁhitaṁ, tatra kālaññū tathāgato hoti tassa pañhassa veyyākaraṇāya.

Như vậy, này Cunda, đối với các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, Như Lai là vị nói phải thời nói chơn chánh, nói như thật, nói có lợi ích, nói đúng Pháp, nói đúng Luật. Do vậy mới gọi là Như Lai.
Iti kho, cunda, atītānāgatapaccuppannesu dhammesu tathāgato kālavādī bhūtavādī atthavādī dhammavādī vinayavādī, tasmā ‘tathāgato’ti vuccati.

Này Cunda, trong thế giới này với chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, với chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, những gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được phân biệt, được đạt đến, được tìm cầu, được suy đạt với ý, tất cả đều được Như Lai biết rõ.
Yañca kho, cunda, sadevakassa lokassa samārakassa sabrahmakassa sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya diṭṭhaṁ sutaṁ mutaṁ viññātaṁ pattaṁ pariyesitaṁ anuvicaritaṁ manasā, sabbaṁ tathāgatena abhisambuddhaṁ,

Do vậy mới gọi là Như Lai.
tasmā ‘tathāgato’ti vuccati.

Này Cunda, trong thời gian giữa đêm Như Lai chứng ngộ Vô thượng Chánh Ðẳng Giác và đêm Như Lai nhập Vô dư y Niết-bàn giới, trong thời gian ấy, những gì Như Lai nói trong khi thuyết giảng, nói chuyện hay trình bày, tất cả là như vậy, chớ không gì khác.
Yañca, cunda, rattiṁ tathāgato anuttaraṁ sammāsambodhiṁ abhisambujjhati, yañca rattiṁ anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyati, yaṁ etasmiṁ antare bhāsati lapati niddisati. Sabbaṁ taṁ tatheva hoti no aññathā,

Do vậy mới gọi là Như Lai.
tasmā ‘tathāgato’ti vuccati.

Này Cunda, Như Lai nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy.
Yathāvādī, cunda, tathāgato tathākārī, yathākārī tathāvādī.

Nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy nên được gọi là Như Lai.
Iti yathāvādī tathākārī, yathākārī tathāvādī, tasmā ‘tathāgato’ti vuccati.

Này Cunda, đối với thế giới với chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, với chúng Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, Như Lai là bậc Toàn Thắng, không ai có thể thắng nổi, bậc Toàn kiến, bậc Tự Tại.
Sadevake loke, cunda, samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya tathāgato abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī, tasmā ‘tathāgato’ti vuccati.

13. Quan Điểm Mơ Hồ
13. Abyākataṭṭhāna

Này Cunda, sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ ngoại đạo có thể nói:
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, cunda, vijjati yaṁ aññatitthiyā paribbājakā evaṁ vadeyyuṁ:

‘Thế nào Hiền giả, Như Lai có tồn tại sau khi chết không. Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra là sai lầm?’
‘kiṁ nu kho, āvuso, hoti tathāgato paraṁ maraṇā, idameva saccaṁ moghamaññan’ti?

Này Cunda, được nói vậy, Ngươi phải trả lời các du sĩ ngoại đạo như sau:
Evaṁvādino, cunda, aññatitthiyā paribbājakā evamassu vacanīyā:

‘Này hiền giả, Như Lai không có nói: “Như Lai có tồn tại sau khi chết. Như vậy là đúng sự thật, ngoài ra là sai lầm!’
‘abyākataṁ kho etaṁ, āvuso, bhagavatā: “hoti tathāgato paraṁ maraṇā, idameva saccaṁ moghamaññan”’ti.

Này Cunda, sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ ngoại đạo có thể nói:
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, cunda, vijjati, yaṁ aññatitthiyā paribbājakā evaṁ vadeyyuṁ:

‘Thế nào Hiền giả, Như Lai không có tồn tại sau khi chết, có phải không? Như vậy là đúng sự thật, ngoài ra là sai lầm?’
‘kiṁ panāvuso, na hoti tathāgato paraṁ maraṇā, idameva saccaṁ moghamaññan’ti?

Này Cunda, được nói vậy, Ngươi phải trả lời các du sĩ ngoại đạo như sau:
Evaṁvādino, cunda, aññatitthiyā paribbājakā evamassu vacanīyā:

‘Này hiền giả, Như Lai không có nói: “Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra là sai lầm!’
‘etampi kho, āvuso, bhagavatā abyākataṁ: “na hoti tathāgato paraṁ maraṇā, idameva saccaṁ moghamaññan”’ti.

Này Cunda, sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ ngoại đạo có thể nói:
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, cunda, vijjati, yaṁ aññatitthiyā paribbājakā evaṁ vadeyyuṁ:

‘Thế nào Hiền giả, Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra là sai lầm!’
‘kiṁ panāvuso, hoti ca na ca hoti tathāgato paraṁ maraṇā, idameva saccaṁ moghamaññan’ti?

Này Cunda, được nói vậy, Ngươi phải trả lời các du sĩ ngoại đạo như sau:
Evaṁvādino, cunda, aññatitthiyā paribbājakā evamassu vacanīyā:

‘Này hiền giả, Như Lai không có nói: “Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra là sai lầm!’
‘abyākataṁ kho etaṁ, āvuso, bhagavatā: “hoti ca na ca hoti tathāgato paraṁ maraṇā, idameva saccaṁ moghamaññan”’ti.

Này Cunda, sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ ngoại đạo có thể nói:
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, cunda, vijjati, yaṁ aññatitthiyā paribbājakā evaṁ vadeyyuṁ:

‘Thế nào Hiền giả, Như lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết? Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra là sai lầm!’
‘kiṁ panāvuso, neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā, idameva saccaṁ moghamaññan’ti?

Này Cunda, được nói vậy, Ngươi phải trả lời các du sĩ ngoại đạo như sau:
Evaṁvādino, cunda, aññatitthiyā paribbājakā evamassu vacanīyā:

‘Này hiền giả, Như Lai không có nói: “Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết. Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra là sai lầm!”‘
‘etampi kho, āvuso, bhagavatā abyākataṁ: “neva hoti na na hoti tathāgato paraṁ maraṇā, idameva saccaṁ moghamaññan”’ti.

Này Cunda, sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ ngoại đạo có thể nói:
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, cunda, vijjati, yaṁ aññatitthiyā paribbājakā evaṁ vadeyyuṁ:

‘Này Hiền giả, vì sao Sa môn Gotama lại không nói?’
‘kasmā panetaṁ, āvuso, samaṇena gotamena abyākatan’ti?

Này Cunda, được nói vậy, Ngươi phải trả lời các du sĩ ngoại đạo như sau:
Evaṁvādino, cunda, aññatitthiyā paribbājakā evamassu vacanīyā:

‘Này Hiền giả, vì không liên hệ đến lợi ích, không liên hệ đến Pháp, không liên hệ đến căn bản phạm hạnh, không hướng đến yểm ly, vô tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết bàn. Do vậy Thế Tôn không trả lời.’
‘na hetaṁ, āvuso, atthasaṁhitaṁ na dhammasaṁhitaṁ na ādibrahmacariyakaṁ na nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṁvattati, tasmā taṁ bhagavatā abyākatan’ti.

14. Quan Điểm Rõ Ràng
14. Byākataṭṭhāna

Này Cunda, sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ ngoại đạo có thể nói:
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, cunda, vijjati, yaṁ aññatitthiyā paribbājakā evaṁ vadeyyuṁ:

‘Này Hiền giả, Sa môn Gotama nói điều gì?’
‘kiṁ panāvuso, samaṇena gotamena byākatan’ti?

Này Cunda, được nói vậy, Ngươi phải trả lời các du sĩ ngoại đạo như sau:
Evaṁvādino, cunda, aññatitthiyā paribbājakā evamassu vacanīyā:

‘Ðây là Khổ, này Hiền giả, đó là điều Thế Tôn nói. Ðây là Khổ tập, này Hiền giả, đó là điều Thế Tôn nói. Ðây là Khổ diệt, này Hiền giả, đó là điều Thế Tôn nói. Ðây là con đường đưa đến Khổ diệt, này Hiền giả, đó là điều Thế Tôn nói.’
‘idaṁ dukkhanti kho, āvuso, bhagavatā byākataṁ, ayaṁ dukkhasamudayoti kho, āvuso, bhagavatā byākataṁ, ayaṁ dukkhanirodhoti kho, āvuso, bhagavatā byākataṁ, ayaṁ dukkhanirodhagāminī paṭipadāti kho, āvuso, bhagavatā byākatan’ti.

Này Cunda, sự kiện này có thể xảy ra. Các du sĩ ngoại đạo có thể nói:
Ṭhānaṁ kho panetaṁ, cunda, vijjati, yaṁ aññatitthiyā paribbājakā evaṁ vadeyyuṁ:

‘Này Hiền giả, vì sao Thế Tôn lại nói vậy?’
‘kasmā panetaṁ, āvuso, samaṇena gotamena byākatan’ti?

Này Cunda, được nói như vậy, Ngươi phải trả lời cho các du sĩ ngoại đạo như sau:
Evaṁvādino, cunda, aññatitthiyā paribbājakā evamassu vacanīyā:

‘Này Hiền giả, vì liên hệ đến lợi ích, liên hệ đến Pháp, liên hệ đến căn bản phạm hạnh, vì nhất định hướng đến yểm ly, vô tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết bàn. Do vậy, Thế Tôn mới nói.’
‘etañhi, āvuso, atthasaṁhitaṁ, etaṁ dhammasaṁhitaṁ, etaṁ ādibrahmacariyakaṁ ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṁvattati. Tasmā taṁ bhagavatā byākatan’ti.

15. Quan Điểm Về Quá Khứ
15. Pubbantasahagatadiṭṭhinissaya

Này Cunda, mọi biện luận về các tà kiến liên hệ đến quá khứ tối sơ, những biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi.
Yepi te, cunda, pubbantasahagatā diṭṭhinissayā, tepi vo mayā byākatā, yathā te byākātabbā.

Còn những biện luận nào không đáng nói cho các Ngươi, sao Ta lại sẽ nói cho các Ngươi?
Yathā ca te na byākātabbā, kiṁ vo ahaṁ te tathā byākarissāmi?

Này Cunda, mọi biện luận về các tà kiến liên hệ đến tương lai, những biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi.
Yepi te, cunda, aparantasahagatā diṭṭhinissayā, tepi vo mayā byākatā, yathā te byākātabbā.

Còn những biện nào không đáng nói cho các Ngươi, sao Ta lại sẽ nói cho các Ngươi?
Yathā ca te na byākātabbā, kiṁ vo ahaṁ te tathā byākarissāmi?

Này Cunda, thế nào là những biện luận về tà kiến liên hệ đến quá khứ tối sơ, những biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi, và những biện luận không đáng nói cho các Ngươi?
Katame ca te, cunda, pubbantasahagatā diṭṭhinissayā, ye vo mayā byākatā, yathā te byākātabbā. Yathā ca te na byākātabbā, kiṁ vo ahaṁ te tathā byākarissāmi?

Này Cunda, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau:
Santi kho, cunda, eke samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

‘Bản ngã và thế giới là thường còn, như vậy là đúng sự thực, ngoài ra là sai lầm.’
‘sassato attā ca loko ca, idameva saccaṁ moghamaññan’ti.

Này Cunda, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau:
Santi pana, cunda, eke samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

‘Bản ngã và thế giới là không thường còn…
‘asassato attā ca loko ca …pe…

Bản ngã và thế giới là thường còn và không thường còn…
sassato ca asassato ca attā ca loko ca …

Bản ngã và thế giới là không thường còn và không không thường còn…
neva sassato nāsassato attā ca loko ca …

Bản ngã và thế giới là do mình tự tạo ra…
sayaṅkato attā ca loko ca …

Bản ngã và thế giới là do người khác tạo ra…
paraṅkato attā ca loko ca …

Bản ngã và thế giới là do mình tạo ra và do người khác tạo ra…
sayaṅkato ca paraṅkato ca attā ca loko ca …

Bản ngã và thế giới là tự nhiên sanh, không do mình tự tạo ra, không do người khác tạo ra. Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra sai lầm.
asayaṅkāro aparaṅkāro adhiccasamuppanno attā ca loko ca, idameva saccaṁ moghamaññan’ti.

Lạc, khổ là thường còn…
‘Sassataṁ sukhadukkhaṁ …

Lạc, khổ là vô thường…
asassataṁ sukhadukkhaṁ …

Lạc, khổ là thường còn và vô thường…
sassatañca asassatañca sukhadukkhaṁ …

Lạc, khổ là không thường còn và không vô thường
nevasassataṁ nāsassataṁ sukhadukkhaṁ …

Lạc, khổ là do tự mình tạo ra…
sayaṅkataṁ sukhadukkhaṁ …

Lạc, khổ là do người khác tạo ra…
paraṅkataṁ sukhadukkhaṁ …

Lạc, khổ là do tự mình tạo ra và do người khác tạo ra…
sayaṅkatañca paraṅkatañca sukhadukkhaṁ …

Lạc, khổ là do tự nhiên sanh, không do mình tự tạo ra, không do người khác tạo ra. Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra đều là sai lầm.’
asayaṅkāraṁ aparaṅkāraṁ adhiccasamuppannaṁ sukhadukkhaṁ, idameva saccaṁ moghamaññan’ti.

Này Cunda, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào có quan điểm như sau, có tri kiến như sau:
Tatra, cunda, ye te samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

‘Bản ngã và thế giới là thường còn, như vậy là đúng sự thật, ngoài ra đều là sai lầm’
‘sassato attā ca loko ca, idameva saccaṁ moghamaññan’ti.

Ta đến những vị ấy và nói:
Tyāhaṁ upasaṅkamitvā evaṁ vadāmi:

‘Này Hiền giả có phải Hiền giả nói rằng:
‘atthi nu kho idaṁ, āvuso, vuccati:

“Bản ngã và thế giới là thường còn không?’
“sassato attā ca loko cā”’ti?

Nếu các vị ấy trả lời:
Yañca kho te evamāhaṁsu:

Như vậy là đúng sự thật, ngoài ra đều là sai lầm,’
‘idameva saccaṁ moghamaññan’ti.

Thì Ta không chấp nhận như vậy.
Taṁ tesaṁ nānujānāmi.

Tại sao vậy?
Taṁ kissa hetu?

Này Cunda, có một số hữu tình có những tư tưởng sai khác.
Aññathāsaññinopi hettha, cunda, santeke sattā.

Này Cunda, ta cũng không xem quan điểm ấy ngang bằng quan điểm của Ta, chớ đừng nói cao hơn.
Imāyapi kho ahaṁ, cunda, paññattiyā neva attanā samasamaṁ samanupassāmi kuto bhiyyo.

Như vậy ở đây Ta cao hơn về thượng trí.
Atha kho ahameva tattha bhiyyo yadidaṁ adhipaññatti.

Này Cunda, những Sa-môn, Bà-la-môn nào có quan điểm như sau, có tri kiến như sau:
Tatra, cunda, ye te samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

‘Bản ngã và thế giới là không thường còn…
‘asassato attā ca loko ca …pe…

Bản ngã và thế giới là thường còn và không thường còn…
sassato ca asassato ca attā ca loko ca …

Bản ngã và thế giới là không thường còn và không không thường còn…
neva sassato nāsassato attā ca loko ca …

Bản ngã và thế giới là do mình tự tạo ra…
sayaṅkato attā ca loko ca …

Bản ngã và thế giới là do người khác tạo ra…
paraṅkato attā ca loko ca …

Bản ngã và thế giới là do mình tạo ra và do người khác tạo ra…
sayaṅkato ca paraṅkato ca attā ca loko ca …

Bản ngã và thế giới là tự nhiên sanh, không do mình tự tạo ra, không do người khác tạo ra. Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra sai lầm.
asayaṅkāro aparaṅkāro adhiccasamuppanno attā ca loko ca, idameva saccaṁ moghamaññan’ti.

Lạc, khổ là thường còn…
sassataṁ sukhadukkhaṁ …

Lạc, khổ là vô thường…
asassataṁ sukhadukkhaṁ …

Lạc, khổ là thường còn và vô thường…
sassatañca asassatañca sukhadukkhaṁ …

Lạc, khổ không thường còn và không vô thường…
nevasassataṁ nāsassataṁ sukhadukkhaṁ …

Lạc, khổ là tự mình tạo ra…
sayaṅkataṁ sukhadukkhaṁ …

Lạc, khổ là tự người khác tạo ra…
paraṅkataṁ sukhadukkhaṁ …

Lạc, khổ là tự mình tạo ra và tự người khác tạo ra…
sayaṅkatañca paraṅkatañca sukhadukkhaṁ …

Lạc, khổ là tự nhiên sanh, không tự mình tạo ra và không do người khác tạo ra. Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra đều là sai lầm.
asayaṅkāraṁ aparaṅkāraṁ adhiccasamuppannaṁ sukhadukkhaṁ, idameva saccaṁ moghamaññan’ti.

Ta đến những vị ấy và nói:
Tyāhaṁ upasaṅkamitvā evaṁ vadāmi:

Này Hiền giả, có phải Hiền giả nói rằng:
‘atthi nu kho idaṁ, āvuso, vuccati:

Lạc, khổ là tự nhiên sanh, không tự mình tạo ra và không do người khác tạo ra?
“asayaṅkāraṁ aparaṅkāraṁ adhiccasamuppannaṁ sukhadukkhan”’ti?

Nếu các vị ấy trả lời:
Yañca kho te evamāhaṁsu:

‘Như vậy là đúng sự thực, ngoài ra đều là sai lầm!’
‘idameva saccaṁ moghamaññan’ti.

thì Ta không chấp nhận như vậy.
Taṁ tesaṁ nānujānāmi.

Tại sao vậy?
Taṁ kissa hetu?

Có một số hữu tình có những ý tưởng sai khác.
Aññathāsaññinopi hettha, cunda, santeke sattā.

Này Cunda Ta cũng không xem quan điểm ấy ngang bằng quan điểm của Ta, chớ đừng nói cao hơn.
Imāyapi kho ahaṁ, cunda, paññattiyā neva attanā samasamaṁ samanupassāmi kuto bhiyyo.

Như vậy ở đây Ta cao hơn về thượng trí.
Atha kho ahameva tattha bhiyyo yadidaṁ adhipaññatti.

Này Cunda, những biện luận về các tà kiến liên hệ đến quá khứ tối sơ này, biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi.
Ime kho te, cunda, pubbantasahagatā diṭṭhinissayā, ye vo mayā byākatā, yathā te byākātabbā.

Còn những biện luận nào không đáng nói cho các Ngươi, sao Ta lại sẽ nói cho các Ngươi?
Yathā ca te na byākātabbā, kiṁ vo ahaṁ te tathā byākarissāmi?

16. Quan Điểm Về Tương Lai
16. Aparantasahagatadiṭṭhinissaya

Này Cunda, thế nào là những biện luận về tà kiến liên hệ đến tương lai, những biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi; và những biện luận không đáng nói cho các Ngươi?
Katame ca te, cunda, aparantasahagatā diṭṭhinissayā, ye vo mayā byākatā, yathā te byākātabbā. Yathā ca te na byākātabbā, kiṁ vo ahaṁ te tathā byākarissāmi?

Này Cunda, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau:
Santi, cunda, eke samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

‘Bản ngã là có sắc, không bệnh, sau khi chết. Như vậy là đúng sự thật, ngoài ra là sai lầm!’
‘rūpī attā hoti arogo paraṁ maraṇā, idameva saccaṁ moghamaññan’ti.

Lại nữa này Cunda, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau:
Santi pana, cunda, eke samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

Bản ngã là vô sắc…
‘arūpī attā hoti …

Bản ngã là không có sắc và không vô sắc…
rūpī ca arūpī ca attā hoti …

Bản ngã là có tưởng…
nevarūpī nārūpī attā hoti …

Bản ngã là vô tưởng…
saññī attā hoti …

Bản ngã là có tưởng và vô tưởng…
asaññī attā hoti …

Bản ngã là không có tưởng và không vô tưởng…
nevasaññīnāsaññī attā hoti …

Bản ngã là đoạn diệt, biến hoại, sau khi chết không có tồn tại. Như vậy là đúng sự thật ngoài ra là sai lầm.’
attā ucchijjati vinassati na hoti paraṁ maraṇā, idameva saccaṁ moghamaññan’ti.

Này Cunda, những vị Sa-môn, Bà-la-môn nào có quan điểm như sau, có tri kiến như sau:
Tatra, cunda, ye te samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

Bản ngã là có sắc, không bệnh sau khi chết. Như vậy là đúng sự thật, ngoài ra là sai lầm
‘rūpī attā hoti arogo paraṁ maraṇā, idameva saccaṁ moghamaññan’ti.

Ta đến những vị ấy và nói:
Tyāhaṁ upasaṅkamitvā evaṁ vadāmi:

‘Này Hiền giả có phải Hiền giả có nói:
‘atthi nu kho idaṁ, āvuso, vuccati:

“Bản ngã là có sắc, không có bệnh sau khi chết”?’
“rūpī attā hoti arogo paraṁ maraṇā”’ti?

Nếu các vị ấy trả lời: “Như vậy là đúng sự thật, ngoài ra là sai lầm”
Yañca kho te evamāhaṁsu: ‘idameva saccaṁ moghamaññan’ti.

Thì Ta không chấp nhận như vậy.
Taṁ tesaṁ nānujānāmi.

Tại sao vậy?
Taṁ kissa hetu?

Này Cunda, vì có một số hữu tình có những tư tưởng sai khác.
Aññathāsaññinopi hettha, cunda, santeke sattā.

Này Cunda, Ta cũng không xem quan điểm ấy ngang bằng quan điểm của Ta, chớ đừng nói cao hơn.
Imāyapi kho ahaṁ, cunda, paññattiyā neva attanā samasamaṁ samanupassāmi kuto bhiyyo.

Như vậy ở đây, Ta cao hơn về thượng trí.
Atha kho ahameva tattha bhiyyo yadidaṁ adhipaññatti.

Này Cunda, có những Sa-môn, Bà-la-môn có những quan điểm như sau, có những tri kiến như sau:
Tatra, cunda, ye te samaṇabrāhmaṇā evaṁvādino evaṁdiṭṭhino:

Bản ngã là vô sắc…
‘arūpī attā hoti …

Bản ngã là không có sắc và không vô sắc…
rūpī ca arūpī ca attā hoti …

Bản ngã là có tưởng…
nevarūpī nārūpī attā hoti …

Bản ngã là vô tưởng…
saññī attā hoti …

Bản ngã là có tưởng và vô tưởng…
asaññī attā hoti …

Bản ngã là không có tưởng và không vô tưởng…
nevasaññīnāsaññī attā hoti …

Bản ngã là đoạn diệt, biến hoại, sau khi chết không có tồn tại. Như vậy là đúng sự thật ngoài ra là sai lầm.’
attā ucchijjati vinassati na hoti paraṁ maraṇā, idameva saccaṁ moghamaññan’ti.

Ta đến những vị ấy và nói:
Tyāhaṁ upasaṅkamitvā evaṁ vadāmi:

‘Này Hiền giả, có phải Hiền giả nói rằng:
‘atthi nu kho idaṁ, āvuso, vuccati:

“Bản ngã là đoạn diệt biến hoại, sau khi chết không có tồn tại”?’
“attā ucchijjati vinassati na hoti paraṁ maraṇā”’ti?

Này Cunda, nếu những vị ấy nói: “Như vậy là đúng sự thật, ngoài ra là sai lầm!”
Yañca kho te, cunda, evamāhaṁsu: ‘idameva saccaṁ moghamaññan’ti.

Thì Ta không chấp nhận như vậy.
Taṁ tesaṁ nānujānāmi.

Tại sao vậy?
Taṁ kissa hetu?

Vì có một số hữu tình có những tư tưởng sai khác.
Aññathāsaññinopi hettha, cunda, santeke sattā.

Này Cunda, Ta cũng không xem quan điểm ấy ngang bằng quan điểm của Ta chớ đừng nói cao hơn.
Imāyapi kho ahaṁ, cunda, paññattiyā neva attanā samasamaṁ samanupassāmi, kuto bhiyyo.

Như vậy ở đây, Ta cao hơn về thượng trí.
Atha kho ahameva tattha bhiyyo yadidaṁ adhipaññatti.

Này Cunda, những biện luận về những tà kiến liên hệ đến tương lai, những biện luận nào đáng nói cho các Ngươi, Ta đã nói cho các Ngươi.
Ime kho te, cunda, aparantasahagatā diṭṭhinissayā, ye vo mayā byākatā, yathā te byākātabbā.

Còn những biện luận nào không đáng nói cho các Ngươi, sao Ta lại sẽ nói cho các Ngươi?
Yathā ca te na byākātabbā, kiṁ vo ahaṁ te tathā byākarissāmi?

Này Cunda, với mục đích đoạn trừ và vượt qua những biện luận về các tà kiến liên hệ đến quá khứ tối sơ này và các biện luận về các tà kiến liên hệ đến tương lai này, mà bốn pháp Niệm xứ được ta tuyên thuyết, trình bày.
Imesañca, cunda, pubbantasahagatānaṁ diṭṭhinissayānaṁ imesañca aparantasahagatānaṁ diṭṭhinissayānaṁ pahānāya samatikkamāya evaṁ mayā cattāro satipaṭṭhānā desitā paññattā.

Thế nào là bốn?
Katame cattāro?

Này Cunda, ở đây vị Tỷ kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, với mục đích nhiếp phục tham, sân ở đời.
Idha, cunda, bhikkhu kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṁ.

Sống quán thọ trên các cảm thọ…
Vedanāsu vedanānupassī …pe…

Trong các tâm…
citte cittānupassī …pe…

Quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, với mục đích nhiệp phục tham ưu ở đời.
dhammesu dhammānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṁ.

Này Cunda, với mục đích đoạn trừ và vượt qua các biện luận về các tà kiến liên hệ đến quá khứ tối sơ này và các biện luận về các tà kiến liên hệ đến tương lai này mà bốn Niệm xứ được Ta truyền thuyết trình bày.”
Imesañca, cunda, pubbantasahagatānaṁ diṭṭhinissayānaṁ imesañca aparantasahagatānaṁ diṭṭhinissayānaṁ pahānāya samatikkamāya. Evaṁ mayā ime cattāro satipaṭṭhānā desitā paññattā”ti.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Upavāṇa đang đứng sau lưng hầu quạt Thế Tôn.
Tena kho pana samayena āyasmā upavāṇo bhagavato piṭṭhito ṭhito hoti bhagavantaṁ bījayamāno.

Tôn giả Upavāṇa bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā upavāṇo bhagavantaṁ etadavoca:

“Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thật kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn!
“acchariyaṁ, bhante, abbhutaṁ, bhante.

Bạch Thế Tôn, pháp thoại này thật là thanh tịnh! Bạch Thế Tôn, pháp thoại này thật là tuyệt đối thanh tịnh! Bạch Thế Tôn, pháp thoại này tên là gì?”
Pāsādiko vatāyaṁ, bhante, dhammapariyāyo; supāsādiko vatāyaṁ, bhante, dhammapariyāyo, ko nāmāyaṁ, bhante, dhammapariyāyo”ti?

“Này Upavāṇa, pháp thoại này là Thanh tịnh (Pāsādika), hãy như vậy mà phụng trì.”
“Tasmātiha tvaṁ, upavāṇa, imaṁ dhammapariyāyaṁ ‘pāsādiko’ tveva naṁ dhārehī”ti.

Thế Tôn thuyết dạy như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Tôn giả Upavāṇa hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Attamano āyasmā upavāṇo bhagavato bhāsitaṁ abhinandīti.

Dứt kinh thanh tịnh.
Pāsādikasuttaṁ niṭṭhitaṁ chaṭṭhaṁ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt