Sáng/Tối

Dīgha Nikāya – Trường Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trường Bộ 28

Trường Bộ 28
Dīgha Nikāya 28

Kinh Tự Hoan Hỷ
Sampasādanīyasutta

1. Tiếng Rống Sư Tử Của Đại Đức Xá-Lợi-Phất (Sāriputta)
1. Sāriputtasīhanāda

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—

Một thời, Thế Tôn ở tại Nālandā, trong rừng Pāvārikambavane.
ekaṁ samayaṁ bhagavā nāḷandāyaṁ viharati pāvārikambavane.

Lúc bấy giờ, tôn giả Sāriputta (Xá-lợi-phất) đến tại chỗ Thế Tôn ở, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Khi ngồi xuống một bên, tôn giả Sāriputta bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā sāriputto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho āyasmā sāriputto bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại, không thể có một vị Sa môn, một vị Bà-la-môn khác nào có thể vĩ đại hơn Thế Tôn, sáng suốt hơn Thế Tôn, về phương diện giác ngộ.”
“evaṁpasanno ahaṁ, bhante, bhagavati, na cāhu na ca bhavissati na cetarahi vijjati añño samaṇo vā brāhmaṇo vā bhagavatā bhiyyobhiññataro yadidaṁ sambodhiyan”ti.

“Này Sāriputta, lời nói của Ngươi thật là đại ngôn, thật là gan dạ. Ngươi thật là rống tiếng rống con sư tử khi Ngươi nói:
“Uḷārā kho te ayaṁ, sāriputta, āsabhī vācā bhāsitā, ekaṁso gahito, sīhanādo nadito:

‘Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi;
‘evaṁpasanno ahaṁ, bhante, bhagavati;

Con nghĩ rằng, ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại, không thể có một vị Sa môn, một vị Bà-la-môn nào có thể vĩ đại hơn Thế Tôn, sáng suốt hơn Thế Tôn, về phương diện giác ngộ.’
na cāhu na ca bhavissati na cetarahi vijjati añño samaṇo vā brāhmaṇo vā bhagavatā bhiyyobhiññataro yadidaṁ sambodhiyan’ti.

Này Sāriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong quá khứ, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của tất cả các vị Thế Tôn:
Kiṁ te, sāriputta, ye te ahesuṁ atītamaddhānaṁ arahanto sammāsambuddhā, sabbe te bhagavanto cetasā ceto paricca viditā:

Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?”
‘evaṁsīlā te bhagavanto ahesuṁ itipi, evaṁdhammā te bhagavanto ahesuṁ itipi, evaṁpaññā te bhagavanto ahesuṁ itipi, evaṁvihārī te bhagavanto ahesuṁ itipi, evaṁvimuttā te bhagavanto ahesuṁ itipī’”ti?

“Bạch Thế Tôn, không!”
“No hetaṁ, bhante”.

“Này Sāriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong tương lai, các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của tất cả các vị Thế Tôn
“Kiṁ pana te, sāriputta, ye te bhavissanti anāgatamaddhānaṁ arahanto sammāsambuddhā, sabbe te bhagavanto cetasā ceto paricca viditā:

Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?”
‘evaṁsīlā te bhagavanto bhavissanti itipi, evaṁdhammā … evaṁpaññā … evaṁvihārī … evaṁvimuttā te bhagavanto bhavissanti itipī’”ti?

“Bạch Thế Tôn, không!”
“No hetaṁ, bhante”.

“Này Sāriputta, có phải Ngươi đã được biết, trong hiện tại Ta là vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, với tâm của Ngươi biết được tâm của Thế Tôn
“Kiṁ pana te, sāriputta, ahaṁ etarahi arahaṁ sammāsambuddho cetasā ceto paricca vidito:

Giới đức chư vị Thế Tôn là như vậy, Pháp chư vị Thế Tôn là như vậy, Trí tuệ chư vị Thế Tôn là như vậy, An trú chư vị Thế Tôn là như vậy, Giải thoát Thế Tôn là như vậy??”
‘evaṁsīlo bhagavā itipi, evaṁdhammo … evaṁpañño … evaṁvihārī … evaṁvimutto bhagavā itipī’”ti?

“Bạch Thế Tôn, không!”
“No hetaṁ, bhante”.

“Này Sāriputta, hãy xem! Ngươi không có trí tuệ biết được tâm tư của chư vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở quá khứ, ở hiện tại và ở tương lai!
“Ettha ca hi te, sāriputta, atītānāgatapaccuppannesu arahantesu sammāsambuddhesu cetopariyañāṇaṁ natthi.

Vậy sao, này Sāriputta, lời nói của Ngươi tuyên bố thật là đại ngôn, thật là gan dạ. Ngươi thật đã rống tiếng rống con sư tử khi Ngươi nói:
Atha kiṁ carahi te ayaṁ, sāriputta, uḷārā āsabhī vācā bhāsitā, ekaṁso gahito, sīhanādo nadito:

“Bạch Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại, không thể có một vị Sa môn, vị Bà-la-môn khác nào có thể vĩ đại hơn Thế Tôn, sáng suốt hơn Thế Tôn, về phương diện giác ngộ.”
‘evaṁpasanno ahaṁ, bhante, bhagavati, na cāhu na ca bhavissati na cetarahi vijjati añño samaṇo vā brāhmaṇo vā bhagavatā bhiyyobhiññataro yadidaṁ sambodhiyan’”ti?

“Bạch Thế Tôn, con không có trí tuệ để được biết tâm tư của chư vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trong quá khứ, hiện tại và vị lai.
“Na kho me, bhante, atītānāgatapaccuppannesu arahantesu sammāsambuddhesu cetopariyañāṇaṁ atthi.

Bạch Thế Tôn, nhưng con biết truyền thống về Chánh pháp.
Api ca me dhammanvayo vidito.

Bạch Thế Tôn, như vị vua có một thành trì ở biên cảnh, có hào lũy kiên cố, có thành quách tháp canh kiên cố và chỉ có một cửa thành ra vào.
Seyyathāpi, bhante, rañño paccantimaṁ nagaraṁ daḷhuddhāpaṁ daḷhapākāratoraṇaṁ ekadvāraṁ.

Cửa thành có vị giữ cửa thông minh, biệt tài và giàu kinh nghiệm, ngăn chận những người lạ, chỉ cho vào những ai quen biết.
Tatrassa dovāriko paṇḍito byatto medhāvī aññātānaṁ nivāretā, ñātānaṁ pavesetā.

Người này, trong khi đi tuần tiểu xung quanh thành, có thể không thấy hết các chắp nối và khe hở của tường, nhỏ cho đến một con mèo có thể đi qua được.
So tassa nagarassa samantā anupariyāyapathaṁ anukkamamāno na passeyya pākārasandhiṁ vā pākāravivaraṁ vā antamaso biḷāranikkhamanamattampi.

Nhưng người ấy chỉ cần biết rằng:
Tassa evamassa:

‘Các sinh vật to lớn hơn muốn đi vào hay đi ra thành này, tất cả đều phải đi vào hay đi ra cửa này.’
‘ye kho keci oḷārikā pāṇā imaṁ nagaraṁ pavisanti vā nikkhamanti vā, sabbe te imināva dvārena pavisanti vā nikkhamanti vā’ti.

Bạch Thế Tôn, cũng vậy con biết truyền thống về Chánh pháp:
Evameva kho me, bhante, dhammanvayo vidito.

‘Tất cả những vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trong thời quá khứ, tất cả những bậc Thế Tôn này đã diệt trừ Năm Triền cái, những nhiễm tâm khiến trí tuệ yếu ớt, đã khéo an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, đã như thật tu hạnh Bảy Giác chi, đã chứng ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Giác.’
Ye te, bhante, ahesuṁ atītamaddhānaṁ arahanto sammāsambuddhā, sabbe te bhagavanto pañca nīvaraṇe pahāya cetaso upakkilese paññāya dubbalīkaraṇe catūsu satipaṭṭhānesu suppatiṭṭhitacittā, satta sambojjhaṅge yathābhūtaṁ bhāvetvā anuttaraṁ sammāsambodhiṁ abhisambujjhiṁsu.

Tất cả những vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác trong thời vị lai, tất cả những bậc Thế Tôn này sẽ diệt trừ Năm Triền cái, những nhiễm tâm khiến trí tuệ yếu ớt, sẽ khéo an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, sẽ như thật tu hạnh Bảy Giác chi và sẽ chứng ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Giác.
Yepi te, bhante, bhavissanti anāgatamaddhānaṁ arahanto sammāsambuddhā, sabbe te bhagavanto pañca nīvaraṇe pahāya cetaso upakkilese paññāya dubbalīkaraṇe catūsu satipaṭṭhānesu suppatiṭṭhitacittā, satta sambojjhaṅge yathābhūtaṁ bhāvetvā anuttaraṁ sammāsambodhiṁ abhisambujjhissanti.

Bạch Thế Tôn, và nay Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đã diệt trừ Năm Triền cái, những nhiễm tâm khiến trí tuệ yếu ớt, sẽ khéo an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, đã như thật tu hạnh Bảy Giác chi, đã chứng ngộ vô thượng Chánh Ðẳng Giác.
Bhagavāpi, bhante, etarahi arahaṁ sammāsambuddho pañca nīvaraṇe pahāya cetaso upakkilese paññāya dubbalīkaraṇe catūsu satipaṭṭhānesu suppatiṭṭhitacitto satta sambojjhaṅge yathābhūtaṁ bhāvetvā anuttaraṁ sammāsambodhiṁ abhisambuddho.

Và nay ở đây, con một thời yết kiến Thế Tôn để nghe pháp.
Idhāhaṁ, bhante, yena bhagavā tenupasaṅkamiṁ dhammassavanāya.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn thuyết pháp cho con, mỗi pháp lại cao thượng, thâm thúy hơn pháp trước, hắc pháp và bạch pháp đều được đề cập, đối chiếu.
Tassa me, bhante, bhagavā dhammaṁ deseti uttaruttaraṁ paṇītapaṇītaṁ kaṇhasukkasappaṭibhāgaṁ.

Bạch Thế Tôn, nhờ Thế Tôn thuyết pháp cho con, mỗi pháp lại cao thượng, thâm thúy hơn pháp trước, hắc pháp và bạch pháp đều được đề cập, đối chiếu như vậy, nên trong sự thâm hiểu Chánh pháp, một pháp được con thâm hiểu trọn vẹn, đó là lòng tin của con vào vị Bổn Sư:
Yathā yathā me, bhante, bhagavā dhammaṁ desesi uttaruttaraṁ paṇītapaṇītaṁ kaṇhasukkasappaṭibhāgaṁ tathā tathāhaṁ tasmiṁ dhamme abhiññā idhekaccaṁ dhammaṁ dhammesu niṭṭhamagamaṁ; satthari pasīdiṁ:

‘Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng và chúng Tăng đã khéo hành trì.’
‘sammāsambuddho bhagavā, svākkhāto bhagavatā dhammo, suppaṭipanno sāvakasaṅgho’ti.

1.1. Về Các Thiện Pháp
1.1. Kusaladhammadesanā

Bạch Thế Tôn, lại nữa, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về các thiện pháp.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti kusalesu dhammesu.

Ở đây những thiện pháp là:
Tatrime kusalā dhammā seyyathidaṁ—

Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Như ý túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Giác chi, Thánh đạo tám ngành.
cattāro satipaṭṭhānā, cattāro sammappadhānā, cattāro iddhipādā, pañcindriyāni, pañca balāni, satta bojjhaṅgā, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo.

Bạch Thế Tôn, ở đây vị Tỷ kheo tận diệt các lậu hoặc, có thể tự mình chứng tri và chứng ngộ, đạt đến và an trú ngay trong hiện tại, Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát vô lậu này.
Idha, bhante, bhikkhu āsavānaṁ khayā anāsavaṁ cetovimuttiṁ paññāvimuttiṁ diṭṭheva dhamme sayaṁ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati.

Bạch Thế Tôn, thật là vô thượng đối với các thiện pháp.
Etadānuttariyaṁ, bhante, kusalesu dhammesu.

Tất cả điểm này, Thế Tôn đã biết và ngoài sự hiểu biết của Ngài, không có gì còn lại để hiểu biết hơn nữa. Không có một ai, một Sa môn hay một Bà-la-môn nào khác có thể chứng biết hơn Thế Tôn về vấn đề các thiện pháp.
Taṁ bhagavā asesamabhijānāti, taṁ bhagavato asesamabhijānato uttari abhiññeyyaṁ natthi, yadabhijānaṁ añño samaṇo vā brāhmaṇo vā bhagavatā bhiyyobhiññataro assa, yadidaṁ kusalesu dhammesu.

1.2. Trình Bày Các Nhập Xứ
1.2. Āyatanapaṇṇattidesanā

Bạch Thế Tôn, lại nữa, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về sự trình bày các Nhập xứ.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti āyatanapaṇṇattīsu.

Bạch Thế Tôn, sáu nội xứ và ngoại xứ, tức là
Chayimāni, bhante, ajjhattikabāhirāni āyatanāni.

Mắt và sắc, tai và tiếng, mũi và hương, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và pháp.
Cakkhuñceva rūpā ca, sotañceva saddā ca, ghānañceva gandhā ca, jivhā ceva rasā ca, kāyo ceva phoṭṭhabbā ca, mano ceva dhammā ca.

Bạch Thế Tôn, thật là vô thượng về sự trình bày các Nhập xứ.
Etadānuttariyaṁ, bhante, āyatanapaṇṇattīsu.

Tất cả điểm này, Thế Tôn đã biết và ngoài sự hiểu biết của Ngài, không có gì còn lại để hiểu biết hơn nữa. Không có một ai, một Sa môn hay một Bà-la-môn nào khác có thể chứng biết hơn Thế Tôn về vấn đề trình bày các Nhập xứ.
Taṁ bhagavā asesamabhijānāti, taṁ bhagavato asesamabhijānato uttari abhiññeyyaṁ natthi, yadabhijānaṁ añño samaṇo vā brāhmaṇo vā bhagavatā bhiyyobhiññataro assa yadidaṁ āyatanapaṇṇattīsu.

1.3. Vấn Đề Nhập Thai
1.3. Gabbhāvakkantidesanā

Bạch Thế Tôn, lại nữa, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề nhập thai.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti gabbhāvakkantīsu.

Bạch Thế Tôn, có bốn loại nhập thai.
Catasso imā, bhante, gabbhāvakkantiyo.

Bạch Thế Tôn, ở đây, có loại không biết mình nhập bụng người mẹ, không biết mình trú trong bụng người mẹ và không biết mình ra khỏi bụng người mẹ. Ðó là loại nhập thai thứ nhất.
Idha, bhante, ekacco asampajāno mātukucchiṁ okkamati; asampajāno mātukucchismiṁ ṭhāti; asampajāno mātukucchimhā nikkhamati. Ayaṁ paṭhamā gabbhāvakkanti.

Lại nữa bạch Thế Tôn, có loại biết mình nhập bụng người mẹ, nhưng không biết mình an trú trong bụng người mẹ và không biết mình ra khỏi bụng người mẹ. Ðó là loại nhập thai nhứ hai.
Puna caparaṁ, bhante, idhekacco sampajāno mātukucchiṁ okkamati; asampajāno mātukucchismiṁ ṭhāti; asampajāno mātukucchimhā nikkhamati. Ayaṁ dutiyā gabbhāvakkanti.

Lại nữa bạch Thế Tôn, có loại biết mình nhập bụng người mẹ, biết mình an trú trong bụng người mẹ, và không biết mình ra khỏi bụng người mẹ. Ðó là loại nhập thai thứ ba.
Puna caparaṁ, bhante, idhekacco sampajāno mātukucchiṁ okkamati; sampajāno mātukucchismiṁ ṭhāti; asampajāno mātukucchimhā nikkhamati. Ayaṁ tatiyā gabbhāvakkanti.

Lại nữa Bạch Thế Tôn, có loại biết mình nhập bụng người mẹ, biết mình an trú trong bụng người mẹ và biết mình ra khỏi bụng người mẹ. Ðó là loại nhập thai thứ tư.
Puna caparaṁ, bhante, idhekacco sampajāno mātukucchiṁ okkamati; sampajāno mātukucchismiṁ ṭhāti; sampajāno mātukucchimhā nikkhamati. Ayaṁ catutthā gabbhāvakkanti.

Bạch Thế Tôn, thật là vô thượng về vấn đề nhập thai.
Etadānuttariyaṁ, bhante, gabbhāvakkantīsu.

1.4. Vấn Đề Sai Khác Trong Sự Ký Tâm
1.4. Ādesanavidhādesanā

Bạch Thế Tôn, lại nữa, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề sai khác trong sự ký tâm.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti ādesanavidhāsu.

Bạch Thế Tôn có bốn loại ký tâm sai khác như thế này.
Catasso imā, bhante, ādesanavidhā.

Bạch Thế Tôn, có hạng tự tỏ lộ bằng hình tướng:
Idha, bhante, ekacco nimittena ādisati:

‘Ý của Ngươi là như thế này, ý của Ngươi là như vậy, tâm của Ngươi là như thế này.’
‘evampi te mano, itthampi te mano, itipi te cittan’ti.

Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thì sự tỏ lộ là như vậy, không phải gì khác.
So bahuñcepi ādisati, tatheva taṁ hoti, no aññathā.

Như vậy là loại ký tâm thứ nhất.
Ayaṁ paṭhamā ādesanavidhā.

Lại nữa bạch Thế Tôn, ở đây có loại không tự tỏ lộ bằng hình tướng, nhưng tỏ lộ sau khi nghe tiếng phát ra bởi người, phi nhân, hay chư Thiên:
Puna caparaṁ, bhante, idhekacco na heva kho nimittena ādisati. Api ca kho manussānaṁ vā amanussānaṁ vā devatānaṁ vā saddaṁ sutvā ādisati:

‘Ý của Ngươi là như thế này, ý của Ngươi là như vậy, tâm của Ngươi là như thế này.’
‘evampi te mano, itthampi te mano, itipi te cittan’ti.

Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thì sự tỏ lộ là như vậy, không phải gì khác.
So bahuñcepi ādisati, tatheva taṁ hoti, no aññathā.

Như vậy là loại ký tâm thứ hai.
Ayaṁ dutiyā ādesanavidhā.

Lại nữa bạch Thế Tôn, ở đây có loại không tự tỏ lộ bằng hình tướng, cũng không tự tỏ lộ sau khi nghe tiếng phát ra bởi Người, phi nhân hay chư Thiên, mà tự tỏ lộ sau khi nghe tiếng rõ ràng và hợp lý, phát ra từ sự suy tầm, tư duy:
Puna caparaṁ, bhante, idhekacco na heva kho nimittena ādisati, nāpi manussānaṁ vā amanussānaṁ vā devatānaṁ vā saddaṁ sutvā ādisati. Api ca kho vitakkayato vicārayato vitakkavipphārasaddaṁ sutvā ādisati:

‘Ý của Ngươi là như thế này, ý của Ngươi là như vậy, tâm của Ngươi là như thế này.’
‘evampi te mano, itthampi te mano, itipi te cittan’ti.

Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thời sự tỏ lộ là như vậy, không phải gì khác.
So bahuñcepi ādisati, tatheva taṁ hoti, no aññathā.

Như vậy là loại ký tâm thứ ba.
Ayaṁ tatiyā ādesanavidhā.

Lại nữa bạch Thế Tôn, ở đây có loại không tự tỏ lộ bằng hình tướng, cũng không tự tỏ lộ sau khi nghe tiếng phát ra bởi người, phi nhân, hay chư Thiên, cũng không tự tỏ lộ, sau khi nghe tiếng rõ ràng và hợp lý, phát ra từ sự suy tầm và tư duy, nhưng khi chứng được định, không tầm, không tứ, có thể biết được tâm người khác với tâm của mình:
Puna caparaṁ, bhante, idhekacco na heva kho nimittena ādisati, nāpi manussānaṁ vā amanussānaṁ vā devatānaṁ vā saddaṁ sutvā ādisati, nāpi vitakkayato vicārayato vitakkavipphārasaddaṁ sutvā ādisati. Api ca kho avitakkaṁ avicāraṁ samādhiṁ samāpannassa cetasā ceto paricca pajānāti:

‘Tùy ước nguyện hợp ý hành của Tôn giả này, vị này sẽ hướng tâm đến tâm này.’
‘yathā imassa bhoto manosaṅkhārā paṇihitā. Tathā imassa cittassa anantarā imaṁ nāma vitakkaṁ vitakkessatī’ti.

Nếu có tỏ lộ nhiều đi nữa, thời sự tỏ lộ là như vậy, không phải gì khác.
So bahuñcepi ādisati, tatheva taṁ hoti, no aññathā.

Như vậy là loại ký tâm thứ tư.
Ayaṁ catutthā ādesanavidhā.

Bạch Thế Tôn, thật là vô thượng về vấn đề ký tâm sai khác.
Etadānuttariyaṁ, bhante, ādesanavidhāsu.

1.5. Vấn Đề Kiến Định
1.5. Dassanasamāpattidesanā

Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: lúc Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề kiến định
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti dassanasamāpattīsu.

Bạch Thế Tôn, có bốn loại kiến định như thế này:
Catasso imā, bhante, dassanasamāpattiyo.

Ở đây bạch Thế Tôn, có vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Với tâm nhập định như vậy, vị ấy quan sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt:
Idha, bhante, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya padhānamanvāya anuyogamanvāya appamādamanvāya sammāmanasikāramanvāya tathārūpaṁ cetosamādhiṁ phusati, yathāsamāhite citte imameva kāyaṁ uddhaṁ pādatalā adho kesamatthakā tacapariyantaṁ pūraṁ nānappakārassa asucino paccavekkhati:

‘Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước ở khớp xương, nước tiểu.’
‘atthi imasmiṁ kāye kesā lomā nakhā dantā taco maṁsaṁ nhāru aṭṭhi aṭṭhimiñjaṁ vakkaṁ hadayaṁ yakanaṁ kilomakaṁ pihakaṁ papphāsaṁ antaṁ antaguṇaṁ udariyaṁ karīsaṁ pittaṁ semhaṁ pubbo lohitaṁ sedo medo assu vasā kheḷo siṅghānikā lasikā muttan’ti.

Như vậy là kiến định thứ nhất.
Ayaṁ paṭhamā dassanasamāpatti.

Lại nữa bạch Thế Tôn, ở đây có vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Với tâm nhập định như vậy, vị ấy quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt:
Puna caparaṁ, bhante, idhekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya …pe… tathārūpaṁ cetosamādhiṁ phusati, yathāsamāhite citte imameva kāyaṁ uddhaṁ pādatalā adho kesamatthakā tacapariyantaṁ pūraṁ nānappakārassa asucino paccavekkhati:

Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước ở khớp xương, nước tiểu.
‘atthi imasmiṁ kāye kesā lomā …pe… lasikā muttan’ti.

Hơn nữa, vị ấy quán sát bộ xương của người ấy còn liên kết với nhau, còn dính thịt, máu và da.
Atikkamma ca purisassa chavimaṁsalohitaṁ aṭṭhiṁ paccavekkhati.

Như vậy là kiến định thứ hai.
Ayaṁ dutiyā dassanasamāpatti.

Lại nữa bạch Thế Tôn, ở đây có vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Với tâm nhập định như vậy, vị ấy quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt:
Puna caparaṁ, bhante, idhekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya …pe… tathārūpaṁ cetosamādhiṁ phusati, yathāsamāhite citte imameva kāyaṁ uddhaṁ pādatalā adho kesamatthakā tacapariyantaṁ pūraṁ nānappakārassa asucino paccavekkhati:

Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước ở khớp xương, nước tiểu.
‘atthi imasmiṁ kāye kesā lomā …pe… lasikā muttan’ti.

Hơn nữa, vị ấy vượt qua sự quán sát bộ xương của người ấy còn liên kết với nhau, còn dính thịt, máu và da.
Atikkamma ca purisassa chavimaṁsalohitaṁ aṭṭhiṁ paccavekkhati.

Quán sát giòng tâm thức của người ấy, không gián đoạn, như là an trú cả đời này và an trú cả đời sau.
Purisassa ca viññāṇasotaṁ pajānāti, ubhayato abbocchinnaṁ idha loke patiṭṭhitañca paraloke patiṭṭhitañca.

Như vậy là kiến định thứ ba.
Ayaṁ tatiyā dassanasamāpatti.

Lại nữa bạch Thế Tôn, ở đây có vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Với tâm nhập định như vậy, vị ấy quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt:
Puna caparaṁ, bhante, idhekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya …pe… tathārūpaṁ cetosamādhiṁ phusati, yathāsamāhite citte imameva kāyaṁ uddhaṁ pādatalā adho kesamatthakā tacapariyantaṁ pūraṁ nānappakārassa asucino paccavekkhati:

Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước ở khớp xương, nước tiểu.
‘atthi imasmiṁ kāye kesā lomā …pe… lasikā muttan’ti.

Hơn nữa, vị ấy vượt qua sự quán sát bộ xương của người ấy còn liên kết với nhau, còn dính thịt, máu và da.
Atikkamma ca purisassa chavimaṁsalohitaṁ aṭṭhiṁ paccavekkhati.

Quán sát giòng tâm thức của người ấy, không gián đoạn, như là không an trú cả đời này và cả đời sau.
Purisassa ca viññāṇasotaṁ pajānāti, ubhayato abbocchinnaṁ idha loke appatiṭṭhitañca paraloke appatiṭṭhitañca.

Như vậy là kiến định thứ tư.
Ayaṁ catutthā dassanasamāpatti.

Bạch Thế Tôn, thật là vô thượng về vấn đề kiến định.
Etadānuttariyaṁ, bhante, dassanasamāpattīsu.

1.6. Phân Loại Các Loại Người
1.6. Puggalapaṇṇattidesanā

Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề phân loại các loại Người.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti puggalapaṇṇattīsu.

Bạch Thế Tôn, có bảy loại Người như thế này:
Sattime, bhante, puggalā.

Câu giải thoát, Tuệ giải thoát, Thân chứng, Kiến chí, Tín thắng giải, Tùy pháp hành, Tùy tín hành.
Ubhatobhāgavimutto paññāvimutto kāyasakkhi diṭṭhippatto saddhāvimutto dhammānusārī saddhānusārī.

Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề phân loại loài Người.
Etadānuttariyaṁ, bhante, puggalapaṇṇattīsu.

1.7. Vấn Đề Tinh Cần
1.7. Padhānadesanā

Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề tinh cần.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti padhānesu.

Bạch Thế Tôn có Bảy Giác chi như thế này: Niệm Giác chi, Trạch pháp Giác chi, Tinh tấn Giác chi, Hỷ Giác chi, Khinh an Giác chi, Ðịnh Giác chi, Xả Giác chi.
Sattime, bhante, sambojjhaṅgā satisambojjhaṅgo dhammavicayasambojjhaṅgo vīriyasambojjhaṅgo pītisambojjhaṅgo passaddhisambojjhaṅgo samādhisambojjhaṅgo upekkhāsambojjhaṅgo.

Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề tinh cần.
Etadānuttariyaṁ, bhante, padhānesu.

1.8. Con Đường Hành Đạo (Đạo Hành)
1.8. Paṭipadādesanā

Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề con đường hành đạo.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti paṭipadāsu.

Bạch Thế Tôn, có bốn loại đạo hành như thế này: Hành trì khổ chứng ngộ chậm
Catasso imā, bhante, paṭipadā dukkhā paṭipadā dandhābhiññā,

hành trì khổ chứng ngộ mau,
dukkhā paṭipadā khippābhiññā,

hành trì lạc chứng ngộ chậm,
sukhā paṭipadā dandhābhiññā,

hành trì lạc chứng ngộ mau.
sukhā paṭipadā khippābhiññāti.

Bạch Thế Tôn, ở đây, thế này là hành trì khổ, chứng ngộ chậm. Bạch Thế Tôn, sự hành trì cả hai phương diện đều được xem là hạ liệt, vừa khổ vừa chậm.
Tatra, bhante, yāyaṁ paṭipadā dukkhā dandhābhiññā, ayaṁ, bhante, paṭipadā ubhayeneva hīnā akkhāyati dukkhattā ca dandhattā ca.

Bạch Thế Tôn, ở đây, thế này là hành trì khổ, chứng ngộ mau. Bạch Thế Tôn, sự hành trì này vì khổ nên được gọi là hạ liệt.
Tatra, bhante, yāyaṁ paṭipadā dukkhā khippābhiññā, ayaṁ pana, bhante, paṭipadā dukkhattā hīnā akkhāyati.

Bạch Thế Tôn, ở đây, thế này là hành trì lạc, chứng ngộ chậm. Bạch Thế Tôn, sự hành trì này vì chậm nên được gọi là hạ liệt.
Tatra, bhante, yāyaṁ paṭipadā sukhā dandhābhiññā, ayaṁ pana, bhante, paṭipadā dandhattā hīnā akkhāyati.

Bạch Thế Tôn, ở đây, thế này là hành trì lạc, chứng ngộ mau. Bạch Thế Tôn sự hành trì này cả hai phương diện đều được xem là cao thượng, vừa lạc vừa mau.
Tatra, bhante, yāyaṁ paṭipadā sukhā khippābhiññā, ayaṁ pana, bhante, paṭipadā ubhayeneva paṇītā akkhāyati sukhattā ca khippattā ca.

Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề đạo hành (tiến bộ trên đường tu hành).
Etadānuttariyaṁ, bhante, paṭipadāsu.

1.9. Chánh Hạnh Trong Ngôn Ngữ
1.9. Bhassasamācārādidesanā

Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề chánh hạnh trong ngôn ngữ.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti bhassasamācāre.

Bạch Thế Tôn, ở đây, một người không những không nói những lời liên hệ đến nói láo, mà cũng phải, trong khi tìm cách thắng cuộc, không dùng lời vu khống, lời ác khẩu và lời ly gián;
Idha, bhante, ekacco na ceva musāvādupasañhitaṁ vācaṁ bhāsati na ca vebhūtiyaṁ na ca pesuṇiyaṁ na ca sārambhajaṁ jayāpekkho;

trái lại, người ấy nói lời từ hòa, sáng suốt, đáng được giữ gìn, và nói đúng thời.
mantā mantā ca vācaṁ bhāsati nidhānavatiṁ kālena.

Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về chánh hạnh trong ngôn ngữ.
Etadānuttariyaṁ, bhante, bhassasamācāre.

Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề giới hạnh của con người.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti purisasīlasamācāre.

Bạch Thế Tôn, ở đây, có người chân thật, thành tín, không dối trá, không lừa gạt, không gợi ý, không chiêm tướng, không lấy lợi câu lợi; hộ trì các căn, ăn uống tiết độ, hành động ôn hòa, luôn luôn cảnh giác, không chán nản, tinh cần, trầm tư, chánh niệm, ngôn từ lanh lợi, hành vi gan dạ, chịu đựng, biết điều, không tham dục, tỉnh giác, cẩn trọng.
Idha, bhante, ekacco sacco cassa saddho ca, na ca kuhako, na ca lapako, na ca nemittiko, na ca nippesiko, na ca lābhena lābhaṁ nijigīsanako, indriyesu guttadvāro, bhojane mattaññū, samakārī, jāgariyānuyogamanuyutto, atandito, āraddhavīriyo, jhāyī, satimā, kalyāṇapaṭibhāno, gatimā, dhitimā, matimā, na ca kāmesu giddho, sato ca nipako ca.

Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề giới hạnh của con người.
Etadānuttariyaṁ, bhante, purisasīlasamācāre.

1.10. Sự Sai Biệt Trong Giảng Dạy
1.10. Anusāsanavidhādesanā

Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về sự sai biệt trong sự giảng dạy.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti anusāsanavidhāsu.

Bạch Thế Tôn, có bốn loại giảng dạy.
Catasso imā, bhante, anusāsanavidhā—

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy, biết người khác:
jānāti, bhante, bhagavā aparaṁ puggalaṁ paccattaṁ yonisomanasikārā

‘Người này theo sự giảng dạy, hành trì như thế này, sẽ diệt trừ ba kiết sử, sẽ chứng Dự lưu, không còn bị đọa lạc, chắc chắn sẽ được giác ngộ.’
‘ayaṁ puggalo yathānusiṭṭhaṁ tathā paṭipajjamāno tiṇṇaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā sotāpanno bhavissati avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo’ti.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy, biết người khác:
Jānāti, bhante, bhagavā paraṁ puggalaṁ paccattaṁ yonisomanasikārā:

‘Người này theo sự giảng dạy, hành trì như thế này, sẽ diệt trừ ba kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, si, sẽ chứng Nhất lai, phải sanh đời này một lần nữa trước khi diệt tận khổ đau.’
‘ayaṁ puggalo yathānusiṭṭhaṁ tathā paṭipajjamāno tiṇṇaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā rāgadosamohānaṁ tanuttā sakadāgāmī bhavissati, sakideva imaṁ lokaṁ āgantvā dukkhassantaṁ karissatī’ti.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy biết người khác:
Jānāti, bhante, bhagavā paraṁ puggalaṁ paccattaṁ yonisomanasikārā:

‘Người này theo sự giảng dạy, hành trì như thế này, sẽ diệt trừ năm hạ phần kiết sử, sẽ được hóa sanh và ở tại cảnh giới ấy nhập Niết bàn, không còn về lại đời này.’
‘ayaṁ puggalo yathānusiṭṭhaṁ tathā paṭipajjamāno pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā opapātiko bhavissati tattha parinibbāyī anāvattidhammo tasmā lokā’ti.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy biết người khác:
Jānāti, bhante, bhagavā paraṁ puggalaṁ paccattaṁ yonisomanasikārā:

‘Người này theo sự giảng dạy hành trì như thế này, sẽ diệt trừ các lậu hoặc, tự mình giác tri, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, vô lậu Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát.’
‘ayaṁ puggalo yathānusiṭṭhaṁ tathā paṭipajjamāno āsavānaṁ khayā anāsavaṁ cetovimuttiṁ paññāvimuttiṁ diṭṭheva dhamme sayaṁ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharissatī’ti.

Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề sai biệt trong sự giảng dạy.
Etadānuttariyaṁ, bhante, anusāsanavidhāsu.

1.11. Giải Thoát Trí Của Người Khác
1.11. Parapuggalavimuttiñāṇadesanā

Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về giải thoát trí của người khác.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti parapuggalavimuttiñāṇe.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy biết người khác:
Jānāti, bhante, bhagavā paraṁ puggalaṁ paccattaṁ yonisomanasikārā:

‘Người này diệt trừ ba kiết sử, sẽ chứng quả Dự lưu, không còn bị đọa lạc, nhất định sẽ được giác ngộ.’
‘ayaṁ puggalo tiṇṇaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā sotāpanno bhavissati avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo’ti.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy biết được người khác:
Jānāti, bhante, bhagavā paraṁ puggalaṁ paccattaṁ yonisomanasikārā:

‘Người này sẽ diệt trừ ba kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, si, sẽ chứng quả Nhất lai, phải sanh đời này một lần nữa, sẽ diệt tận khổ đau.’
‘ayaṁ puggalo tiṇṇaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā rāgadosamohānaṁ tanuttā sakadāgāmī bhavissati, sakideva imaṁ lokaṁ āgantvā dukkhassantaṁ karissatī’ti.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy biết được người khác:
Jānāti, bhante, bhagavā paraṁ puggalaṁ paccattaṁ yonisomanasikārā:

‘Người này diệt trừ năm hạ phần kiết sử, sẽ được hóa sanh, tự chỗ ấy nhập Niết bàn, không còn phải trở lại đời này.’
‘ayaṁ puggalo pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā opapātiko bhavissati tattha parinibbāyī anāvattidhammo tasmā lokā’ti.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn nhờ tự chánh tư duy biết người khác:
Jānāti, bhante, bhagavā paraṁ puggalaṁ paccattaṁ yonisomanasikārā:

‘Người này, diệt trừ các lậu hoặc, tự tri tự chứng, đạt đạo và an trú ngay trong đời hiện tại vô lậu Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát.’
‘ayaṁ puggalo āsavānaṁ khayā anāsavaṁ cetovimuttiṁ paññāvimuttiṁ diṭṭheva dhamme sayaṁ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharissatī’ti.

Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề giải thoát trí của người khác.
Etadānuttariyaṁ, bhante, parapuggalavimuttiñāṇe.

1.12. Thường Trú Luận
1.12. Sassatavādadesanā

Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề Thường trú luận.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti sassatavādesu.

Bạch Thế Tôn, có ba loại Thường trú luận như thế này.
Tayome, bhante, sassatavādā.

Bạch Thế Tôn ở đây có vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm nên tâm nhập định; khi tâm nhập định, vị ấy nhớ được nhiều đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời, trăm ngàn đời, vô số trăm đời, vô số ngàn đời, vô số trăm ngàn đời.
Idha, bhante, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya …pe… tathārūpaṁ cetosamādhiṁ phusati, yathāsamāhite citte anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarati.

Nhớ rằng: “Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi sống với tên như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi được sanh đến chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống với tên như thế này, tuổi thọ như thế này.” Như vậy vị ấy nhớ nhiều đời quá khứ với những đặc điểm và những chi tiết.
Seyyathidaṁ—ekampi jātiṁ dvepi jātiyo tissopi jātiyo catassopi jātiyo pañcapi jātiyo dasapi jātiyo vīsampi jātiyo tiṁsampi jātiyo cattālīsampi jātiyo paññāsampi jātiyo jātisatampi jātisahassampi jātisatasahassampi anekānipi jātisatāni anekānipi jātisahassāni anekānipi jātisatasahassāni, ‘amutrāsiṁ evaṁnāmo evaṅgotto evaṁvaṇṇo evamāhāro evaṁsukhadukkhappaṭisaṁvedī evamāyupariyanto, so tato cuto amutra udapādiṁ; tatrāpāsiṁ evaṁnāmo evaṅgotto evaṁvaṇṇo evamāhāro evaṁsukhadukkhappaṭisaṁvedī evamāyupariyanto, so tato cuto idhūpapanno’ti. Iti sākāraṁ sauddesaṁ anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarati.

Vị ấy nói rằng:
So evamāha:

‘Trong thời quá khứ, tôi biết được thế giới là trong hoại kiếp hay thành hoại kiếp.
‘atītampāhaṁ addhānaṁ jānāmi—saṁvaṭṭi vā loko vivaṭṭi vāti.

Nhưng trong tương lai tôi không được biết thế giới là trong hoại kiếp hay thành kiếp.
Anāgataṁpāhaṁ addhānaṁ jānāmi—saṁvaṭṭissati vā loko vivaṭṭissati vāti.

Bản ngả và thế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đỉnh núi, như trụ đá. Còn những loại hữu tình kia thì lưu chuyển, luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú.’
Sassato attā ca loko ca vañjho kūṭaṭṭho esikaṭṭhāyiṭṭhito. Te ca sattā sandhāvanti saṁsaranti cavanti upapajjanti, atthi tveva sassatisaman’ti.

Ðó là Thường trú luận thứ nhất.
Ayaṁ paṭhamo sassatavādo.

Lại nữa, bạch Thế Tôn, ở đây, có vị Sa môn hay Bà-la-môn nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ được nhiều đời sống quá khứ, như một thành kiếp hoại kiếp, hai thành kiếp hoại kiếp, ba thành kiếp hoại kiếp, bốn thành kiếp hoại kiếp, năm thành kiếp hoại kiếp, mười thành kiếp hoại kiếp.
Puna caparaṁ, bhante, idhekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya …pe… tathārūpaṁ cetosamādhiṁ phusati, yathāsamāhite citte anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarati.

Nhớ rằng: “Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại sanh tại chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ kia chết đi, tôi được sanh tại chỗ này.” Như vậy vị ấy nhớ nhiều đời quá khứ với những đặc điểm và những chi tiết.
Seyyathidaṁ—ekampi saṁvaṭṭavivaṭṭaṁ dvepi saṁvaṭṭavivaṭṭāni tīṇipi saṁvaṭṭavivaṭṭāni cattāripi saṁvaṭṭavivaṭṭāni pañcapi saṁvaṭṭavivaṭṭāni dasapi saṁvaṭṭavivaṭṭāni, ‘amutrāsiṁ evaṁnāmo evaṅgotto evaṁvaṇṇo evamāhāro evaṁsukhadukkhappaṭisaṁvedī evamāyupariyanto, so tato cuto amutra udapādiṁ; tatrāpāsiṁ evaṁnāmo evaṅgotto evaṁvaṇṇo evamāhāro evaṁsukhadukkhappaṭisaṁvedī evamāyupariyanto, so tato cuto idhūpapanno’ti. Iti sākāraṁ sauddesaṁ anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarati.

Vị ấy nói:
So evamāha:

‘Trong thời quá khứ, tôi biết được thế giới là trong hoại kiếp hay thành kiếp.
‘atītampāhaṁ addhānaṁ jānāmi saṁvaṭṭi vā loko vivaṭṭi vāti.

Trong tương lai, tôi biết được thế giới sẽ là trong hoại kiếp hay thành kiếp.
Anāgataṁpāhaṁ addhānaṁ jānāmi saṁvaṭṭissati vā loko vivaṭṭissati vāti.

Bản ngã và thế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đỉnh núi, như trụ đá.
Sassato attā ca loko ca vañjho kūṭaṭṭho esikaṭṭhāyiṭṭhito.

Còn những loại hữu tình kia thì lưu chuyển luân hồi, chết đi sanh lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú.’
Te ca sattā sandhāvanti saṁsaranti cavanti upapajjanti, atthi tveva sassatisaman’ti.

Ðó là Thường trú luận thứ hai.
Ayaṁ dutiyo sassatavādo.

Lại nữa, bạch Thế Tôn, ở đây, vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định vị ấy nhớ được nhiều đời sống quá khứ, như mười thành kiếp hoại kiếp, hai mươi thành kiếp hoại kiếp, ba mươi thành kiếp hoại kiếp, bốn mươi thành kiếp hoại kiếp.
Puna caparaṁ, bhante, idhekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya …pe… tathārūpaṁ cetosamādhiṁ phusati, yathāsamāhite citte anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarati.

Nhớ rằng: “Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại được sanh tại chỗ kia. Tại chỗ kia, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này.” Như vậy vị ấy nhớ nhiều đời quá khứ, với những đặc điểm và những chi tiết.
Seyyathidaṁ—dasapi saṁvaṭṭavivaṭṭāni vīsampi saṁvaṭṭavivaṭṭāni tiṁsampi saṁvaṭṭavivaṭṭāni cattālīsampi saṁvaṭṭavivaṭṭāni, ‘amutrāsiṁ evaṁnāmo evaṅgotto evaṁvaṇṇo evamāhāro evaṁsukhadukkhappaṭisaṁvedī evamāyupariyanto, so tato cuto amutra udapādiṁ; tatrāpāsiṁ evaṁnāmo evaṅgotto evaṁvaṇṇo evamāhāro evaṁsukhadukkhappaṭisaṁvedī evamāyupariyanto, so tato cuto idhūpapanno’ti. Iti sākāraṁ sauddesaṁ anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarati.

Vị ấy nói:
So evamāha:

‘Trong thời quá khứ, tôi biết được thế giới là trong hoại kiếp hay thành kiếp.
‘atītampāhaṁ addhānaṁ jānāmi saṁvaṭṭipi loko vivaṭṭipīti;

Trong tương lai, tôi biết được thế giới là trong hoại kiếp hay trong thành kiếp.
anāgataṁpāhaṁ addhānaṁ jānāmi saṁvaṭṭissatipi loko vivaṭṭissatipīti.

Bản ngã và thế giới là thường trú, bất sanh, vững chắc như đỉnh núi, như trụ đá.
Sassato attā ca loko ca vañjho kūṭaṭṭho esikaṭṭhāyiṭṭhito.

Còn những loại hữu tình kia thì lưu chuyển luân hồi, chết đi sống lại, tuy vậy chúng vẫn thường trú.’
Te ca sattā sandhāvanti saṁsaranti cavanti upapajjanti, atthi tveva sassatisaman’ti.

Ðó là Thường trú luận thứ ba.
Ayaṁ tatiyo sassatavādo,

Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề Thường trú luận.
etadānuttariyaṁ, bhante, sassatavādesu.

1.13. Túc Mạng Trí
1.13. Pubbenivāsānussatiñāṇadesanā

Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề Túc mạng trí.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti pubbenivāsānussatiñāṇe.

Bạch Thế Tôn, ở đây có vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy nhớ được nhiều đời sống quá khứ.
Idha, bhante, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya …pe… tathārūpaṁ cetosamādhiṁ phusati, yathāsamāhite citte anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarati.

Như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại kiếp thành kiếp. Nhớ rằng:
Seyyathidaṁ—ekampi jātiṁ dvepi jātiyo tissopi jātiyo catassopi jātiyo pañcapi jātiyo dasapi jātiyo vīsampi jātiyo tiṁsampi jātiyo cattālīsampi jātiyo paññāsampi jātiyo jātisatampi jātisahassampi jātisatasahassampi anekepi saṁvaṭṭakappe anekepi vivaṭṭakappe anekepi saṁvaṭṭavivaṭṭakappe,

‘Khi được sanh tại chỗ ấy, tôi đã sống với tên như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại được sanh tại chỗ kia. Tại chỗ kia tôi đã sống với tâm như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này. Từ chỗ ấy chết đi, tôi lại được sanh tại chỗ kia. Tại chỗ kia tôi đã sống với tâm như thế này, giòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, lạc thọ khổ thọ như thế này, tuổi thọ như thế này.’ Như vậy, vị ấy nhớ nhiều đời quá khứ, với những đặc điểm và những chi tiết.
‘amutrāsiṁ evaṁnāmo evaṅgotto evaṁvaṇṇo evamāhāro evaṁsukhadukkhappaṭisaṁvedī evamāyupariyanto, so tato cuto amutra udapādiṁ; tatrāpāsiṁ evaṁnāmo evaṅgotto evaṁvaṇṇo evamāhāro evaṁsukhadukkhappaṭisaṁvedī evamāyupariyanto, so tato cuto idhūpapanno’ti. Iti sākāraṁ sauddesaṁ anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarati.

Bạch Thế Tôn, có những chư Thiên, mà tuổi thọ không thể đếm được hay không thể tính được.
Santi, bhante, devā, yesaṁ na sakkā gaṇanāya vā saṅkhānena vā āyu saṅkhātuṁ.

Nhưng dưới bất cứ ngã thể nào được có trong quá khứ, hoặc có sắc hay không sắc, hoặc có tưởng hay không tưởng, hoặc phi tưởng phi phi tưởng.
Api ca yasmiṁ yasmiṁ attabhāve abhinivuṭṭhapubbo hoti yadi vā rūpīsu yadi vā arūpīsu yadi vā saññīsu yadi vā asaññīsu yadi vā nevasaññīnāsaññīsu.

Chúng nhớ đến đời quá khứ với các đặc điểm và chi tiết như vậy.
Iti sākāraṁ sauddesaṁ anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarati.

Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề Túc mạng trí.
Etadānuttariyaṁ, bhante, pubbenivāsānussatiñāṇe.

1.14. Sanh Tử Trí
1.14. Cutūpapātañāṇadesanā

Lại nữa, bạch Thế Tôn điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề Sanh tử trí của các loài hữu tình.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti sattānaṁ cutūpapātañāṇe.

Ở đây, bạch Thế Tôn, có vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh ức niệm nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh.
Idha, bhante, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya …pe… tathārūpaṁ cetosamādhiṁ phusati, yathāsamāhite citte dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne upapajjamāne

Vị ấy biết rõ rằng, chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ: “Này các Hiền giả, những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, ngữ và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào khổ giới, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Hiền giả, còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngữ và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo Chánh kiến, tạo các nghiệp theo Chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này”. Như vậy, vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ.
hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate yathākammūpage satte pajānāti: ‘ime vata bhonto sattā kāyaduccaritena samannāgatā vacīduccaritena samannāgatā manoduccaritena samannāgatā ariyānaṁ upavādakā micchādiṭṭhikā micchādiṭṭhikammasamādānā. Te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapannā. Ime vā pana bhonto sattā kāyasucaritena samannāgatā vacīsucaritena samannāgatā manosucaritena samannāgatā ariyānaṁ anupavādakā sammādiṭṭhikā sammādiṭṭhikammasamādānā. Te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapannā’ti. Iti dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate yathākammūpage satte pajānāti.

Bạch Thế Tôn, như vậy là tối thượng về vấn đề Sanh tử trí của các loại hữu tình.
Etadānuttariyaṁ, bhante, sattānaṁ cutūpapātañāṇe.

1.15. Thần Túc Thông
1.15. Iddhividhadesanā

Lại nữa, bạch Thế Tôn, điểm này thật là vô thượng: Thế Tôn thuyết pháp về vấn đề Thần túc thông.
Aparaṁ pana, bhante, etadānuttariyaṁ, yathā bhagavā dhammaṁ deseti iddhividhāsu.

Bạch Thế Tôn, có hai loại thần thông như thế này.
Dvemā, bhante, iddhividhāyo—

Bạch Thế Tôn, có loại thần thông hữu lậu, hữu dư y, được gọi là “không phải Thánh”.
atthi, bhante, iddhi sāsavā saupadhikā, ‘no ariyā’ti vuccati.

Bạch Thế Tôn, có loại thần thông vô lậu, vô dư y, được gọi là “bậc Thánh”.
Atthi, bhante, iddhi anāsavā anupadhikā ‘ariyā’ti vuccati.

Bạch Thế Tôn, thế nào là loại thần thông hữu lậu, hữu dư y, được gọi là “không phải Thánh”?
Katamā ca, bhante, iddhi sāsavā saupadhikā, ‘no ariyā’ti vuccati?

Ở đây, bạch Thế Tôn, có vị Sa môn hay Bà-la-môn, nhờ nhất tâm, nhờ cần mẫn, nhờ bất phóng dật, nhờ chánh ức niệm, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, vị ấy chứng được nhiều loại Thần túc thông sai khác:
idha, bhante, ekacco samaṇo vā brāhmaṇo vā ātappamanvāya …pe… tathārūpaṁ cetosamādhiṁ phusati, yathāsamāhite citte anekavihitaṁ iddhividhaṁ paccanubhoti—

Một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân. Hiện hình biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư không; độn thổ trồi lên ngang qua đất liền, như ở trong nước; đi trên nước không chìm như trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên.
ekopi hutvā bahudhā hoti, bahudhāpi hutvā eko hoti; āvibhāvaṁ tirobhāvaṁ tirokuṭṭaṁ tiropākāraṁ tiropabbataṁ asajjamāno gacchati seyyathāpi ākāse; pathaviyāpi ummujjanimujjaṁ karoti seyyathāpi udake; udakepi abhijjamāne gacchati seyyathāpi pathaviyaṁ; ākāsepi pallaṅkena kamati seyyathāpi pakkhī sakuṇo; imepi candimasūriye evaṁmahiddhike evaṁmahānubhāve pāṇinā parāmasati parimajjati; yāva brahmalokāpi kāyena vasaṁ vatteti.

Bạch Thế Tôn, như vậy là loại thần thông hữu lậu, hữu dư y, được gọi là “không phải Thánh”.
Ayaṁ, bhante, iddhi sāsavā saupadhikā, ‘no ariyā’ti vuccati.

Bạch Thế Tôn, thế nào là thần thông vô lậu, vô dư y, được gọi là “bậc Thánh?”
Katamā pana, bhante, iddhi anāsavā anupadhikā, ‘ariyā’ti vuccati?

Ở đây, bạch Thế Tôn vị Tỷ kheo, nếu vị này muốn: “Ðối với sự vật đối nghịch, ta sẽ an trú với tưởng không đối nghịch”, và ở đây vị ấy an trú với tưởng không đối nghịch.
Idha, bhante, bhikkhu sace ākaṅkhati: ‘paṭikūle appaṭikūlasaññī vihareyyan’ti, appaṭikūlasaññī tattha viharati.

Nếu vị ấy muốn: “Ðối với sự vật không đối nghịch, ta sẽ an trú với tưởng đối nghịch”, và ở đây vị ấy an trú với tưởng đối nghịch.
Sace ākaṅkhati: ‘appaṭikūle paṭikūlasaññī vihareyyan’ti, paṭikūlasaññī tattha viharati.

Nếu vị ấy muốn: “Ðối với sự vật đối nghịch và không đối nghịch, ta sẽ an trú với tưởng không đối nghịch”, và ở đây vị ấy an trú với tưởng không đối nghịch.
Sace ākaṅkhati: ‘paṭikūle ca appaṭikūle ca appaṭikūlasaññī vihareyyan’ti, appaṭikūlasaññī tattha viharati.

Nếu vị ấy muốn: “Ðối với sự vật không đối nghịch và đối nghịch, ta sẽ an trú với tưởng đối nghịch”, và ở đây vị ấy an trú với tưởng đối nghịch.
Sace ākaṅkhati: ‘paṭikūle ca appaṭikūle ca paṭikūlasaññī vihareyyan’ti, paṭikūlasaññī tattha viharati.

Nếu vị ấy muốn: “Loại bỏ cả hai đối nghịch và không đối nghịch, ta sẽ trú xả, chánh niệm, tỉnh giác”, và ở đây vị ấy trú xả, chánh niệm, tỉnh giác.
Sace ākaṅkhati: ‘paṭikūlañca appaṭikūlañca tadubhayaṁ abhinivajjetvā upekkhako vihareyyaṁ sato sampajāno’ti, upekkhako tattha viharati sato sampajāno.

Bạch Thế Tôn, như vậy là thần thông vô lậu, vô dư y, và được gọi là “bậc Thánh”.
Ayaṁ, bhante, iddhi anāsavā anupadhikā ‘ariyā’ti vuccati.

Bạch Thế Tôn, như vậy là vô thượng về các loại Thần túc thông.
Etadānuttariyaṁ, bhante, iddhividhāsu.

Tất cả điểm này, Thế Tôn đã biết, và ngoài sự hiểu biết của Ngài, không có gì còn lại để hiểu biết hơn nữa. Không có một ai, một Sa môn hay Bà-la-môn nào khác, có thể chứng biết hơn Thế Tôn về vấn đề các loại Thần túc thông.
Taṁ bhagavā asesamabhijānāti, taṁ bhagavato asesamabhijānato uttari abhiññeyyaṁ natthi, yadabhijānaṁ añño samaṇo vā brāhmaṇo vā bhagavatā bhiyyobhiññataro assa yadidaṁ iddhividhāsu.

1.16. Bốn Thiền Định
1.16. Aññathāsatthuguṇadassana

Bạch Thế Tôn, những gì có thể đạt được bởi một thiện nam tử có lòng tin, có tinh tấn, có kiên trì bởi sự kiên trì của con người, bởi sự tinh tấn của con người, bởi sự tiến bộ của con người, bởi sự nhẫn nhục của con người, đều được Thế Tôn chứng đạt.
Yaṁ taṁ, bhante, saddhena kulaputtena pattabbaṁ āraddhavīriyena thāmavatā purisathāmena purisavīriyena purisaparakkamena purisadhorayhena, anuppattaṁ taṁ bhagavatā.

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không có đam mê các dục lạc, dục lạc này là đê tiện, hèn hạ, thuộc phàm phu, không xứng bậc Thánh, không có lợi ích. Thế Tôn cũng không đam mê tu hành khổ hạnh, khổ hạnh này là khổ, không xứng bậc Thánh, không có lợi ích.
Na ca, bhante, bhagavā kāmesu kāmasukhallikānuyogamanuyutto hīnaṁ gammaṁ pothujjanikaṁ anariyaṁ anatthasaṁhitaṁ, na ca attakilamathānuyogamanuyutto dukkhaṁ anariyaṁ anatthasaṁhitaṁ.

Thế Tôn có thể đạt được nếu Ngài muốn, một cách dễ dàng, một cách đầy đủ, sự hạnh phúc ngay trong hiện tại, do bốn Thiền định đem lại.
Catunnañca bhagavā jhānānaṁ ābhicetasikānaṁ diṭṭhadhammasukhavihārānaṁ nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī.

1.17. Khi Được Hỏi
1.17. Anuyogadānappakāra

Bạch Thế Tôn, nếu có ai hỏi con:
Sace maṁ, bhante, evaṁ puccheyya:

“Này Hiền giả Sāriputta, trong thời quá khứ, có vị Sa môn hay Bà-la-môn nào còn lớn hơn, còn sáng suốt hơn Thế Tôn về vấn đề giác ngộ?” Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy, con trả lời không.
‘kiṁ nu kho, āvuso sāriputta, ahesuṁ atītamaddhānaṁ aññe samaṇā vā brāhmaṇā vā bhagavatā bhiyyobhiññatarā sambodhiyan’ti, evaṁ puṭṭho ahaṁ, bhante, ‘no’ti vadeyyaṁ.

“Này Hiền giả Sāriputta, trong thời vị lai, có vị Sa môn hay Bà-la-môn nào còn lớn hơn, sáng suốt hơn Thế Tôn về vấn đề giác ngộ?” Bạch Thế Tôn, được hỏi như vậy con trả lời không.
‘Kiṁ panāvuso sāriputta, bhavissanti anāgatamaddhānaṁ aññe samaṇā vā brāhmaṇā vā bhagavatā bhiyyobhiññatarā sambodhiyan’ti, evaṁ puṭṭho ahaṁ, bhante, ‘no’ti vadeyyaṁ.

“Này Hiền giả Sāriputta, trong thời hiện tại, có vị Sa môn hay Bà-la-môn nào còn lớn hơn, sáng suốt hơn Thế Tôn về vấn đề giác ngộ?” Bạch Thế Tôn, được hỏi như vậy con trả lời không.”
‘Kiṁ panāvuso sāriputta, atthetarahi añño samaṇo vā brāhmaṇo vā bhagavatā bhiyyobhiññataro sambodhiyan’ti, evaṁ puṭṭho ahaṁ, bhante, ‘no’ti vadeyyaṁ.

Nhưng Bạch Thế Tôn, nếu có ai hỏi con:
Sace pana maṁ, bhante, evaṁ puccheyya:

“Này Hiền giả Sāriputta, trong thời quá khứ, có vị Sa môn hay Bà-la-môn nào có thể bằng Thế Tôn về vấn đề giác ngộ?” Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy con trả lời có.
‘kiṁ nu kho, āvuso sāriputta, ahesuṁ atītamaddhānaṁ aññe samaṇā vā brāhmaṇā vā bhagavatā samasamā sambodhiyan’ti, evaṁ puṭṭho ahaṁ, bhante, ‘evan’ti vadeyyaṁ.

“Này Hiền giả Sāriputta, trong thời vị lai, có vị Sa môn hay Bà-la-môn nào có thể bằng Thế Tôn về vấn đề giác ngộ?” Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy con trả lời có.
‘Kiṁ panāvuso sāriputta, bhavissanti anāgatamaddhānaṁ aññe samaṇā vā brāhmaṇā vā bhagavatā samasamā sambodhiyan’ti, evaṁ puṭṭho ahaṁ, bhante, ‘evan’ti vadeyyaṁ.

“Này Hiền giả Sāriputta, trong thời hiện tại, có vị Sa môn hay Bà-la-môn nào có thể bằng Thế Tôn về vấn đề giác ngộ?” Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy con trả lời không.
‘Kiṁ panāvuso sāriputta, atthetarahi aññe samaṇā vā brāhmaṇā vā bhagavatā samasamā sambodhiyan’ti, evaṁ puṭṭho ahaṁ, bhante, ‘no’ti vadeyyaṁ.

Bạch Thế Tôn, nếu có ai hỏi con:
Sace pana maṁ, bhante, evaṁ puccheyya:

“Vì sao, Tôn giả Sāriputta một mặt thì xác nhận là có, một mặt xác nhận là không có?” Bạch Thế Tôn, được hỏi vậy con sẽ trả lời:
‘kiṁ panāyasmā sāriputto ekaccaṁ abbhanujānāti, ekaccaṁ na abbhanujānātī’ti, evaṁ puṭṭho ahaṁ, bhante, evaṁ byākareyyaṁ:

“Này Hiền giả, trước mặt Thế Tôn, tôi có nghe nói, từ nơi Ngài tôi có ghi nhận:
‘sammukhā metaṁ, āvuso, bhagavato sutaṁ, sammukhā paṭiggahitaṁ:

“Trong thời quá khứ, có vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác bằng Ta về phương diện giác ngộ.”
“ahesuṁ atītamaddhānaṁ arahanto sammāsambuddhā mayā samasamā sambodhiyan”ti.

Này Hiền giả trước mặt Thế Tôn tôi có nghe nói, từ nơi Ngài tôi có ghi nhận: “Trong thời vị lai, có các vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác bằng Ta về phương diện giác ngộ.”
Sammukhā metaṁ, āvuso, bhagavato sutaṁ, sammukhā paṭiggahitaṁ: “bhavissanti anāgatamaddhānaṁ arahanto sammāsambuddhā mayā samasamā sambodhiyan”ti.

Này Hiền giả, trước mặt Thế Tôn tôi có nghe nói từ nơi Ngài tôi có nghi nhận:
Sammukhā metaṁ, āvuso, bhagavato sutaṁ sammukhā paṭiggahitaṁ:

“Không có trường hợp, không có sự kiện trong một thế giới, hai vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác cùng xuất hiện ở đời, không trước, không sau. Sự kiện như vậy không thể xảy ra”.
“aṭṭhānametaṁ anavakāso yaṁ ekissā lokadhātuyā dve arahanto sammāsambuddhā apubbaṁ acarimaṁ uppajjeyyuṁ, netaṁ ṭhānaṁ vijjatī”’ti.

Bạch Thế Tôn, có phải khi được hỏi và trả lời như vậy, con đã nói lên đúng ý với Thế Tôn, không có sai lạc, không có hiểu lầm Thế Tôn? Có phải con đã trả lời thuận pháp, đúng pháp? Có phải không một đối phương hợp pháp nào có thể tìm ra lý do để chỉ trích phê bình?
Kaccāhaṁ, bhante, evaṁ puṭṭho evaṁ byākaramāno vuttavādī ceva bhagavato homi, na ca bhagavantaṁ abhūtena abbhācikkhāmi, dhammassa cānudhammaṁ byākaromi, na ca koci sahadhammiko vādānuvādo gārayhaṁ ṭhānaṁ āgacchatī”ti?

Này Sāriputta, được hỏi và trả lời như vậy, Ngươi đã nói lên đúng ý với Ta, không có sai lạc, không có hiểu lầm Ta. Ngươi đã trả lời thuận pháp và đúng pháp. Không một đối phương hợp pháp nào có thể tìm ra lý do để chỉ trích, phê bình.
“Taggha tvaṁ, sāriputta, evaṁ puṭṭho evaṁ byākaramāno vuttavādī ceva me hosi, na ca maṁ abhūtena abbhācikkhasi, dhammassa cānudhammaṁ byākarosi, na ca koci sahadhammiko vādānuvādo gārayhaṁ ṭhānaṁ āgacchatī”ti.

2. Sự Kỳ Diệu Hy Hữu
2. Acchariyaabbhuta

Ðược nghe nói vậy, Tôn giả Udāyī bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, āyasmā udāyī bhagavantaṁ etadavoca:

“Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Như Lai thiểu dục như vậy, tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy;
“acchariyaṁ, bhante, abbhutaṁ, bhante, tathāgatassa appicchatā santuṭṭhitā sallekhatā.

Trong khi Như Lai có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ.
Yatra hi nāma tathāgato evaṁmahiddhiko evaṁmahānubhāvo, atha ca pana nevattānaṁ pātukarissati.

Bạch Thế Tôn, nếu có một du sĩ ngoại đạo nào, tự thấy mình chứng được dầu chỉ có một pháp, họ đã dương cờ (gióng trống) lên rồi.
Ekamekañcepi ito, bhante, dhammaṁ aññatitthiyā paribbājakā attani samanupasseyyuṁ, te tāvatakeneva paṭākaṁ parihareyyuṁ.

Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn! Như Lai thiểu dục như vậy, tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy;
Acchariyaṁ, bhante, abbhutaṁ, bhante, tathāgatassa appicchatā santuṭṭhitā sallekhatā.

trong khi Như Lai có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ.
Yatra hi nāma tathāgato evaṁmahiddhiko evaṁmahānubhāvo. Atha ca pana nevattānaṁ pātukarissatī”ti.

“Hãy ghi nhận, này Udāyī! Như Lai thiểu dục như vậy, tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy;
“Passa kho tvaṁ, udāyi, ‘tathāgatassa appicchatā santuṭṭhitā sallekhatā.

Trong khi Như Lai có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ.
Yatra hi nāma tathāgato evaṁmahiddhiko evaṁmahānubhāvo, atha ca pana nevattānaṁ pātukarissati’.

Này Udāyī, nếu có một du sĩ ngoại đạo nào, tự thấy mình dầu chỉ có một pháp như vậy, họ đã dương cờ (gióng trống) lên rồi.
Ekamekañcepi ito, udāyi, dhammaṁ aññatitthiyā paribbājakā attani samanupasseyyuṁ, te tāvatakeneva paṭākaṁ parihareyyuṁ.

Này Udāyī hãy ghi nhận! Như Lai thiểu dục như vậy, tri túc như vậy, nghiêm túc như vậy;
Passa kho tvaṁ, udāyi, ‘tathāgatassa appicchatā santuṭṭhitā sallekhatā.

Trong khi Như Lai có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy, mà không tự mình tỏ lộ.”
Yatra hi nāma tathāgato evaṁmahiddhiko evaṁmahānubhāvo, atha ca pana nevattānaṁ pātukarissatī’”ti.

Rồi Thế Tôn bảo tôn giả Sāriputta:
Atha kho bhagavā āyasmantaṁ sāriputtaṁ āmantesi:

“Vậy Sāriputta, Ngươi phải luôn luôn thuyết pháp phân biệt này cho các Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, các Nam cư sĩ và các Nữ cư sĩ.
“Tasmātiha tvaṁ, sāriputta, imaṁ dhammapariyāyaṁ abhikkhaṇaṁ bhāseyyāsi bhikkhūnaṁ bhikkhunīnaṁ upāsakānaṁ upāsikānaṁ.

Này Sāriputta, nếu có những kẻ ngu nào còn nghi ngờ hay ngần ngại đối với Như Lai, nếu họ được nghe pháp phân biệt này, nghi ngờ hay ngần ngại của họ đối với Như Lai sẽ được diệt trừ.”
Yesampi hi, sāriputta, moghapurisānaṁ bhavissati tathāgate kaṅkhā vā vimati vā, tesamimaṁ dhammapariyāyaṁ sutvā tathāgate kaṅkhā vā vimati vā, sā pahīyissatī”ti.

Như vậy, tôn giả Sāriputta nói lên lòng hoan hỷ của mình đối với Thế Tôn.
Iti hidaṁ āyasmā sāriputto bhagavato sammukhā sampasādaṁ pavedesi.

Do vậy, danh từ “Tự hoan hỷ” được dùng cho câu trả lời này.
Tasmā imassa veyyākaraṇassa sampasādanīyantveva adhivacananti.

Dứt bài kinh tự hoan hỷ.
Sampasādanīyasuttaṁ niṭṭhitaṁ pañcamaṁ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt