Trung Bộ 98
Majjhima Nikāya 98
Kinh Vāseṭṭha
Vāseṭṭhasutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời Thế Tôn trú ở Icchānaṅgala (Y-xa-năng -gia-la), tại khu rừng Icchānaṅgala.
ekaṁ samayaṁ bhagavā icchānaṅgale viharati icchānaṅgalavanasaṇḍe.
Lúc bấy giờ có rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có trú tại Icchānaṅgala như:
Tena kho pana samayena sambahulā abhiññātā abhiññātā brāhmaṇamahāsālā icchānaṅgale paṭivasanti, seyyathidaṁ—
Bà-la-môn Caṅkī, Bà-la-môn Tārukkha, Bà-la-môn Pokkharasādi, Bà-la-môn Jānussoṇi, Bà-la-môn Todeyya cùng rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có khác.
caṅkī brāhmaṇo, tārukkho brāhmaṇo, pokkharasāti brāhmaṇo, jāṇussoṇi brāhmaṇo, todeyyo brāhmaṇo, aññe ca abhiññātā abhiññātā brāhmaṇamahāsālā.
Rồi trong khi các thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bhāradvāja đang tản bộ du hành, câu chuyện sau đây được khởi lên:
Atha kho vāseṭṭhabhāradvājānaṁ māṇavānaṁ jaṅghāvihāraṁ anucaṅkamantānaṁ anuvicarantānaṁ ayamantarākathā udapādi:
“Thế nào là một vị Bà-la-môn?”
“kathaṁ, bho, brāhmaṇo hotī”ti?
Thanh niên Bhāradvāja nói như sau:
Bhāradvājo māṇavo evamāha:
“Nếu ai thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, như vậy là
“yato kho, bho, ubhato sujāto mātito ca pitito ca saṁsuddhagahaṇiko yāva sattamā pitāmahayugā akkhitto anupakkuṭṭho jātivādena—
làm một vị Bà-la-môn.”
ettāvatā kho, bho, brāhmaṇo hotī”ti.
Thanh niên Vāseṭṭha nói như sau:
Vāseṭṭho māṇavo evamāha:
“Nếu ai có giới hạnh và thành tựu các cấm giới, như vậy là
“yato kho, bho, sīlavā ca hoti vattasampanno ca—
một vị Bà-la-môn.”
ettāvatā kho, bho, brāhmaṇo hotī”ti.
Thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja không thể thuyết phục thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha, và thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha không thể thuyết phục thanh niên Bhāradvāja.
Neva kho asakkhi bhāradvājo māṇavo vāseṭṭhaṁ māṇavaṁ saññāpetuṁ, na pana asakkhi vāseṭṭho māṇavo bhāradvājaṁ māṇavaṁ saññāpetuṁ.
Rồi thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha nói với thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja:
Atha kho vāseṭṭho māṇavo bhāradvājaṁ māṇavaṁ āmantesi:
“Này Bhāradvāja, Sa-môn Gotama này là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay đang trú ở Icchānaṅgala, tại khu rừng Icchānaṅgala.
“ayaṁ kho, bho bhāradvāja, samaṇo gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito icchānaṅgale viharati icchānaṅgalavanasaṇḍe.
Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama:
Taṁ kho pana bhavantaṁ gotamaṁ evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:
‘Ðây là Thế Tôn… Phật, Thế Tôn’.
‘itipi so bhagavā arahaṁ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṁ buddho bhagavā’ti.
Này Tôn giả Bhāradvāja, chúng ta hãy đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy hỏi Tôn giả Gotama về nghĩa lý này,
Āyāma, bho bhāradvāja, yena samaṇo gotamo tenupasaṅkamissāma; upasaṅkamitvā samaṇaṁ gotamaṁ etamatthaṁ pucchissāma.
và Sa-môn Gotama trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.”
Yathā no samaṇo gotamo byākarissati tathā naṁ dhāressāmā”ti.
“Thưa vâng,” thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja vâng đáp thanh niên Vāseṭṭha.
“Evaṁ, bho”ti kho bhāradvājo māṇavo vāseṭṭhassa māṇavassa paccassosi.
Rồi thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bhāradvāja cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho vāseṭṭhabhāradvājā māṇavā yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṁ sammodiṁsu. Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdiṁsu.
Ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha dùng những bài kệ bạch Thế Tôn:
Ekamantaṁ nisinno kho vāseṭṭho māṇavo bhagavantaṁ gāthāhi ajjhabhāsi:
“Chúng con cả hai người,
Ðược tôn xưng, tự nhận,
Là những bậc thông thái
Cả ba tập Vệ-đà,
Con là đệ tử Ngài,
Pok-kha-ra-sā-ti,
Còn vị thanh niên này,
Ðệ tử Ta-ruk-kha.
“Anuññātapaṭiññātā,
tevijjā mayamasmubho;
Ahaṁ pokkharasātissa,
tārukkhassāyaṁ māṇavo.
Ba Vệ-đà nói gì,
Chúng con đều thông đạt,
Văn cú và văn phạm,
Chúng con đều thấu hiểu,
Thuyết giảng và giải thích,
Thật giống bậc Ðạo sư,
Tôn giả Gotama,
Giữa hai người chúng con
Có sự tranh luận này,
Về huyết thống thọ sanh.
Tevijjānaṁ yadakkhātaṁ,
tatra kevalinosmase;
Padakasmā veyyākaraṇā,
jappe ācariyasādisā;
Tesaṁ no jātivādasmiṁ,
vivādo atthi gotama.
Bha-rad-va-ja nói:
Chính do sự thọ sanh.
Con nói: Do hành động,
Mới thành Bà-la-môn.
Mong bậc có Pháp nhãn,
Hiểu cho là như vậy.
Jātiyā brāhmaṇo hoti,
bhāradvājo iti bhāsati;
Ahañca kammunā brūmi,
evaṁ jānāhi cakkhuma.
Cả hai người chúng con,
Không thể thuyết phục nhau.
Chúng con đến hỏi Ngài,
Bậc Chánh Giác tôn xưng.
Te na sakkoma ñāpetuṁ,
aññamaññaṁ mayaṁ ubho;
Bhavantaṁ puṭṭhumāgamā,
sambuddhaṁ iti vissutaṁ.
Như trăng được tròn đầy,
Quần chúng đến chấp tay,
Ðảnh lễ và chiêm ngưỡng.
Cũng vậy, ở trong đời,
Quần chúng đến đảnh lễ,
Gotama Tôn giả.
Candaṁ yathā khayātītaṁ,
pecca pañjalikā janā;
Vandamānā namassanti,
lokasmiṁ gotamaṁ.
Chúng con đến hỏi Ngài,
Bậc Pháp nhãn thế gian,
Bà-la-môn do sanh,
Hay chính do hành động?
Chúng con không được biết,
Hãy nói chúng con biết.”
Cakkhuṁ loke samuppannaṁ,
mayaṁ pucchāma gotamaṁ;
Jātiyā brāhmaṇo hoti,
udāhu bhavati kammunā;
Ajānataṁ no pabrūhi,
yathā jānemu brāhmaṇan”ti.
“Này Ông Vāseṭṭha,
Ta trả lời cho Ông,
“Tesaṁ vo ahaṁ byakkhissaṁ,
(vāseṭṭhāti bhagavā)
Thuận thứ và như thật,
Sự phân loại do sanh,
Của các loại hữu tình,
Chính do sự sanh đẻ,
Do sanh, có khác loại.
Anupubbaṁ yathātathaṁ;
Jātivibhaṅgaṁ pāṇānaṁ,
Aññamaññāhi jātiyo.
Hãy xem cỏ và cây,
Dầu chúng không nhận thức,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có khác loại.
Tiṇarukkhepi jānātha,
na cāpi paṭijānare;
Liṅgaṁ jātimayaṁ tesaṁ,
aññamaññā hi jātiyo.
Hãy xem loại côn trùng,
Bướm đêm, các loại kiến,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có khác loại.
Tato kīṭe paṭaṅge ca,
yāva kunthakipillike;
Liṅgaṁ jātimayaṁ tesaṁ,
aññamaññā hi jātiyo.
Hãy xem loại bốn chân,
Loại nhỏ và loại lớn,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có khác loại.
Catuppadepi jānātha,
khuddake ca mahallake;
Liṅgaṁ jātimayaṁ tesaṁ,
aññamaññā hi jātiyo.
Hãy xem loài bò sát,
Loại rắn, loại lưng dài,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có khác loại.
Pādudarepi jānātha,
urage dīghapiṭṭhike;
Liṅgaṁ jātimayaṁ tesaṁ,
aññamaññā hi jātiyo.
Hãy xem các loại cá,
Loại sinh sống trong nước,
Chúng có tướng thọ sanh,
Da sanh, có khác loại.
Tato macchepi jānātha,
udake vārigocare;
Liṅgaṁ jātimayaṁ tesaṁ,
aññamaññā hi jātiyo.
Hãy xem các loại chim,
Loại có cánh trên trời,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có khác loại.
Tato pakkhīpi jānātha,
pattayāne vihaṅgame;
Liṅgaṁ jātimayaṁ tesaṁ,
aññamaññā hi jātiyo.
Tùy theo sự thọ sanh,
Chúng có tướng tùy sanh.
Trong thế giới loài Người,
Tướng sanh không có nhiều.
Yathā etāsu jātīsu,
liṅgaṁ jātimayaṁ puthu;
Evaṁ natthi manussesu,
liṅgaṁ jātimayaṁ puthu.
Không ở tóc hay đầu,
Không ở tai hay mắt,
Không ở miệng hay mũi,
Không ở môi hay mày.
Na kesehi na sīsehi,
na kaṇṇehi na akkhīhi;
Na mukhena na nāsāya,
na oṭṭhehi bhamūhi vā.
Không ở vai hay cổ,
Không ở bụng hay lưng,
Không ở mông hay ngực,
Không ở bẹn, hành dâm.
Na gīvāya na aṁsehi,
na udarena na piṭṭhiyā;
Na soṇiyā na urasā,
na sambādhe na methune.
Không ở tay hay chân,
Không ở ngón hay móng,
Không ở đùi hay gối,
Không ở sắc hay tiếng,
Không tướng, do tuỳ sanh,
Tuỳ sanh, loại sai khác.
Na hatthehi na pādehi,
naṅgulīhi nakhehi vā;
Na jaṅghāhi na ūrūhi,
na vaṇṇena sarena vā;
Liṅgaṁ jātimayaṁ neva,
yathā aññāsu jātisu.
Trên tự thân con người,
Không có gì khác biệt,
Chỉ tùy theo danh xưng,
Loài Người được kêu gọi.
Paccattañca sarīresu,
manussesvetaṁ na vijjati;
Vokārañca manussesu,
samaññāya pavuccati.
Ðối người tự sinh sống,
Chăn bò, lo ruộng đất,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là nông phu,
Không phải Bà-la-môn.
Yo hi koci manussesu,
gorakkhaṁ upajīvati;
Evaṁ vāseṭṭha jānāhi,
kassako so na brāhmaṇo.
Đối người tự sinh sống,
Bằng nhiều nghề khác nhau,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là công thợ,
Không phải Bà-la-môn.
Yo hi koci manussesu,
puthusippena jīvati;
Evaṁ vāseṭṭha jānāhi,
sippiko so na brāhmaṇo.
Ai sống nghề buôn bán,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là thương nhân,
Không phải Bà-la-môn.
Yo hi koci manussesu,
vohāraṁ upajīvati;
Evaṁ vāseṭṭha jānāhi,
vāṇijo so na brāhmaṇo.
Ai sống hầu hạ người,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là nô bộc,
Không phải Bà-la-môn.
Yo hi koci manussesu,
parapessena jīvati;
Evaṁ vāseṭṭha jānāhi,
pessako so na brāhmaṇo.
Ai sống lấy của người,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là kẻ trộm,
Không phải Bà-la-môn.
Yo hi koci manussesu,
adinnaṁ upajīvati;
Evaṁ vāseṭṭha jānāhi,
coro eso na brāhmaṇo.
Ai sống nghề cung tên,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là nhà binh,
Không phải Bà-la-môn.
Yo hi koci manussesu,
issatthaṁ upajīvati;
Evaṁ vāseṭṭha jānāhi,
yodhājīvo na brāhmaṇo.
Ai sống nghề tế tự,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là tế quan,
Không phải Bà-la-môn.
Yo hi koci manussesu,
porohiccena jīvati;
Evaṁ vāseṭṭha jānāhi,
yājako so na brāhmaṇo.
Ai sống giữa loài Người,
Thọ hưởng làng, quốc độ,
Vāseṭṭha hãy biết,
Kẻ ấy là vua chúa,
Không phải Bà-la-môn.
Yo hi koci manussesu,
gāmaṁ raṭṭhañca bhuñjati;
Evaṁ vāseṭṭha jānāhi,
rājā eso na brāhmaṇo.
Và Ta không có gọi,
Kẻ ấy Bà-la-môn.
Chỉ vì do thọ sanh,
Dầu vị ấy cao sang,
Dầu vị ấy giàu có,
Nhưng còn ham thế lợi.
Không tham lam thế lợi,
Không chấp thủ sở hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Na cāhaṁ brāhmaṇaṁ brūmi,
yonijaṁ mattisambhavaṁ;
Bhovādi nāma so hoti,
sace hoti sakiñcano;
Akiñcanaṁ anādānaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Vị đoạn tận kiết sử,
Không ai không sợ hãi,
Siêu việt mọi chấp trước,
Thoát ly các hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Sabbasaṁyojanaṁ chetvā,
yo ve na paritassati;
Saṅgātigaṁ visaṁyuttaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Cắt dây thừng, dây ách,
Dây cương, cùng dây trói,
Quăng đi cây chắn ngang,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Bậc sáng suốt, giác ngộ,
Chánh danh Bà-la-môn.
Chetvā naddhiṁ varattañca,
sandānaṁ sahanukkamaṁ;
Ukkhittapalighaṁ buddhaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ai không lỗi, chịu đựng,
Nhiếc mắng cùng đánh trói,
Trang bị với nhẫn lực,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Akkosaṁ vadhabandhañca,
aduṭṭho yo titikkhati;
Khantībalaṁ balānīkaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Không phẫn nộ, giữ luật,
Có giới hạnh không kiêu,
Nhiếp phục, thân tối hậu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Akkodhanaṁ vatavantaṁ,
sīlavantaṁ anussadaṁ;
Dantaṁ antimasārīraṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Như nước trên lá sen,
Hột cải trên đỉnh nhọn,
Không tham luyến dục vọng,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Vāripokkharapatteva,
āraggeriva sāsapo;
Yo na limpati kāmesu,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ai biết ngay đời này
Khổ vì ngã đoạn tận,
Gánh nặng được đặt xuống,
Xa lìa các hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Yo dukkhassa pajānāti,
idheva khayamattano;
Pannabhāraṁ visaṁyuttaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Tuệ thâm sâu, có trí
Thiện xảo đạo phi đạo,
Ðích tối thượng đạt được,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Gambhīrapaññaṁ medhāviṁ,
maggāmaggassa kovidaṁ;
Uttamatthamanuppattaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ai không còn liên hệ,
Cả tại gia, xuất gia,
Không nhà trú, thiểu dục,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Asaṁsaṭṭhaṁ gahaṭṭhehi,
anāgārehi cūbhayaṁ;
Anokasārimappicchaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Bỏ gậy đối chúng sanh,
Kẻ yếu cùng kẻ mạnh,
Không giết, không hại ai,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Nidhāya daṇḍaṁ bhūtesu,
tasesu thāvaresu ca;
Yo na hanti na ghāteti,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Giữa kẻ thù, không thù,
Giữa hung bạo, an tịnh,
Giữa chấp thủ, không chấp,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Aviruddhaṁ viruddhesu,
attadaṇḍesu nibbutaṁ;
Sādānesu anādānaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Dối, tham, sân, mạn, phú,
Ai bỏ rơi được chúng,
Như hột cải rơi khỏi.
Ðầu nhọn của mũi kim,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Yassa rāgo ca doso ca,
māno makkho ca ohito;
Sāsaporiva āraggā,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ai dạy thật nhỏ nhẹ,
Nói lên lời chơn thực,
Không xúc chạm một ai,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Akakkasaṁ viññāpaniṁ,
giraṁ saccaṁ udīraye;
Yāya nābhisajje kiñci,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Dài ngắn hay lớn nhỏ,
Thanh tịnh hay bất tịnh,
Ở đời vật dài ngắn,
Lớn, nhỏ, tịnh, bất tịnh,
Không lấy vật không cho,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Yo ca dīghaṁ va rassaṁ vā,
aṇuṁ thūlaṁ subhāsubhaṁ;
Loke adinnaṁ nādeti,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Với ai không tham cầu,
Ðời này và đời sau,
Từ bỏ mọi tham cầu,
Ðoạn rời mọi hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Āsā yassa na vijjanti,
asmiṁ loke paramhi ca;
Nirāsāsaṁ visaṁyuttaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ai không có chấp tàng,
Với trí đoạn nghi hoặc,
Ðạt nhập đáy bất tử.
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Yassālayā na vijjanti,
aññāya akathaṅkathiṁ;
Amatogadhaṁ anuppattaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ở đời ai vượt khỏi,
Mọi buộc ràng thiện ác,
Không sầu, không bụi uế,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Yodhapuññañca pāpañca,
ubho saṅgaṁ upaccagā;
Asokaṁ virajaṁ suddhaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ai không uế, thanh tịnh,
Không gợn, sáng như trăng,
Hỷ, hữu được đoạn trừ,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Candaṁ va vimalaṁ suddhaṁ,
vippasannaṁ anāvilaṁ;
Nandībhavaparikkhīṇaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ai vượt qua hiểm lộ,
Ác lộ, luân hồi, si,
Vượt khỏi, đến bờ kia,
Thiền tư, không dao động,
Ðoạn trừ mọi nghi hoặc,
An tịnh, không chấp trước,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Yo imaṁ palipathaṁ duggaṁ,
saṁsāraṁ mohamaccagā;
Tiṇṇo pāraṅgato jhāyī,
anejo akathaṅkathī;
Anupādāya nibbuto,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ở đời, bỏ dục vọng,
Không nhà, sống xuất gia,
Ðoạn trừ dục và hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Yodhakāme pahantvāna,
anāgāro paribbaje;
Kāmabhavaparikkhīṇaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ở đời, bỏ tham ác,
Không nhà, sống xuất gia,
Ðoạn trừ ác và hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Yodhataṇhaṁ pahantvāna,
anāgāro paribbaje;
Taṇhābhavaparikkhīṇaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ai từ bỏ nhân ách,
Vượt qua cả thiên ách,
Ðoạn trừ mọi ách nạn,
Thoát ly mọi hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Hitvā mānusakaṁ yogaṁ,
dibbaṁ yogaṁ upaccagā;
Sabbayogavisaṁyuttaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Từ bỏ lạc, bất lạc,
Thanh lương, không y trú,
Chiến thắng mọi thế giới,
Bậc anh hùng dũng mãnh,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Hitvā ratiñca aratiṁ,
sītībhūtaṁ nirūpadhiṁ;
Sabbalokābhibhuṁ vīraṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ai biết thật đầy đủ,
Sự sanh diệt chúng sanh,
Không tham trước, Thiện Thệ,
Giác ngộ, đạt chánh giác,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Cutiṁ yo vedi sattānaṁ,
upapattiñca sabbaso;
Asattaṁ sugataṁ buddhaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Không biết chỗ sở thủ,
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà,
Lậu hoặc được đoạn trừ,
Bậc Ứng Cúng, La-Hán,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Yassa gatiṁ na jānanti,
devā gandhabbamānusā;
Khīṇāsavaṁ arahantaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ai không có chấp trước,
Ðời trước, sau, đời này,
Không chấp, không sở hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Yassa pure ca pacchā ca,
majjhe ca natthi kiñcanaṁ;
Akiñcanaṁ anādānaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ngưu vương, bậc Tối thắng,
Anh hùng, bậc Ðại sĩ,
Bậc Chinh phục, Bất động,
Tắm sạch, bậc Giác Ngộ,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Usabhaṁ pavaraṁ vīraṁ,
mahesiṁ vijitāvinaṁ;
Anejaṁ nhātakaṁ buddhaṁ,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ai biết được đời trước,
Thấy được thiện, ác thú,
Ðạt được sanh diệt đoạn,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
Pubbenivāsaṁ yo vedi,
saggāpāyañca passati;
Atho jātikkhayaṁ patto,
tamahaṁ brūmi brāhmaṇaṁ.
Ðiều thế giới quy ước,
Là “tên” và “gia tộc”,
Chúng chỉ là tục danh,
Do đó mà chế định.
Samaññā hesā lokasmiṁ,
nāmagottaṁ pakappitaṁ;
Sammuccā samudāgataṁ,
tattha tattha pakappitaṁ.
Ðã lâu đời chấp trước,
Tà kiến của kẻ ngu,
Kẻ ngu tự tuyên bố,
Bà-la-môn do sanh.
Dīgharattānusayitaṁ,
diṭṭhigatamajānataṁ;
Ajānantā no pabrunti,
jātiyā hoti brāhmaṇo.
Không phải do sanh đẻ,
Ðược gọi Bà-la-môn,
Không phải do sanh đẻ,
Gọi phi Bà-la-môn;
Chính do sự hành động
Ðược gọi Bà-la-môn,
Chính do sự hành động
Gọi phi Bà-la-môn.
Na jaccā brāhmaṇo hoti,
na jaccā hoti abrāhmaṇo;
Kammunā brāhmaṇo hoti,
kammunā hoti abrāhmaṇo.
Hành động làm nông phu,
Hành động làm công thợ,
Hành động làm lái buôn,
Hành động làm nô bộc.
Kassako kammunā hoti,
sippiko hoti kammunā;
Vāṇijo kammunā hoti,
pessako hoti kammunā.
Hành động làm ăn trộm,
Hành động làm nhà binh.
Hành động làm tế quan,
Hành động làm vua chúa.
Coropi kammunā hoti,
yodhājīvopi kammunā;
Yājako kammunā hoti,
rājāpi hoti kammunā.
Kẻ trí thấy hành động,
Như thật là như vậy.
Thấy rõ lý duyên khởi,
Biết rõ nghiệp dị thục.
Evametaṁ yathābhūtaṁ,
kammaṁ passanti paṇḍitā;
Paṭiccasamuppādadassā,
kammavipākakovidā.
Do nghiệp, đời luân chuyển
Do nghiệp, người luân hồi;
Nghiệp trói buộc chúng sanh,
Như trục xe quay bánh.
Kammunā vattati loko,
kammunā vattati pajā;
Kammanibandhanā sattā,
rathassāṇīva yāyato.
Do khổ hạnh, Phạm hạnh,
Tiết chế và chế ngự,
Tác thành Bà-la-môn.
Bà-la-môn như vậy,
Mới thật là tối thượng,
Tapena brahmacariyena,
saṁyamena damena ca;
Etena brāhmaṇo hoti,
etaṁ brāhmaṇamuttamaṁ.
Ba Vệ-đà thành tựu,
An tịnh, tái sanh đoạn,
Vesettha nên biết,
Kẻ ấy được Phạm thiên,
Ðược Thiên chủ Sakka,
Biết đến thật tường tận.”
Tīhi vijjāhi sampanno,
santo khīṇapunabbhavo;
Evaṁ vāseṭṭha jānāhi,
brahmā sakko vijānatan”ti.
Khi được nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bhāradvāja bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, vāseṭṭhabhāradvājā māṇavā bhagavantaṁ etadavocuṁ:
“Thật vi diệu thay, tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama !
“abhikkantaṁ, bho gotama, abhikkantaṁ, bho gotama.
Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích.
Seyyathāpi, bho gotama, nikkujjitaṁ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṁ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṁ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṁ dhāreyya ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti; evamevaṁ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito.
Thưa Tôn giả Gotama, nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo.
Ete mayaṁ bhavantaṁ gotamaṁ saraṇaṁ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca.
Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.”
Upāsake no bhavaṁ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṁ saraṇaṁ gate”ti.
Vāseṭṭhasuttaṁ niṭṭhitaṁ aṭṭhamaṁ.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt