Trung Bộ 93
Majjhima Nikāya 93
Kinh Assalāyana
Assalāyanasutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp-Cô-Ðộc).
ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Lúc bấy giờ khoảng năm trăm Bà-la-môn từ nhiều quốc độ khác nhau trú tại Sāvatthī vì một vài công việc.
Tena kho pana samayena nānāverajjakānaṁ brāhmaṇānaṁ pañcamattāni brāhmaṇasatāni sāvatthiyaṁ paṭivasanti kenacideva karaṇīyena.
Những vị Bà-la-môn ấy suy nghĩ:
Atha kho tesaṁ brāhmaṇānaṁ etadahosi:
“Sa-môn Gotama này chủ trương bốn giai cấp đều thanh tịnh.
“ayaṁ kho samaṇo gotamo cātuvaṇṇiṁ suddhiṁ paññapeti.
Ai có thể cùng với Sa-môn Gotama thảo luận vấn đề này?”
Ko nu kho pahoti samaṇena gotamena saddhiṁ asmiṁ vacane paṭimantetun”ti?
Lúc bấy giờ thanh niên Assalāyana trú ở Sāvatthī, trẻ tuổi, đầu cạo trọc, chỉ có mười sáu tuổi, tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Ðại nhân tướng.
Tena kho pana samayena assalāyano nāma māṇavo sāvatthiyaṁ paṭivasati daharo, vuttasiro, soḷasavassuddesiko jātiyā, tiṇṇaṁ vedānaṁ pāragū sanighaṇḍukeṭubhānaṁ sākkharappabhedānaṁ itihāsapañcamānaṁ, padako, veyyākaraṇo, lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anavayo.
Rồi các Bà-la-môn ấy suy nghĩ:
Atha kho tesaṁ brāhmaṇānaṁ etadahosi:
“Thanh niên Assalāyana này trú ở Sāvatthī, trẻ tuổi, đầu cạo trọc, chỉ có mười sáu tuổi, tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữ và văn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Ðại nhân tướng.
“ayaṁ kho assalāyano māṇavo sāvatthiyaṁ paṭivasati daharo, vuttasiro, soḷasavassuddesiko jātiyā, tiṇṇaṁ vedānaṁ pāragū …pe… anavayo.
Vị ấy có thể thảo luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này”.
So kho pahoti samaṇena gotamena saddhiṁ asmiṁ vacane paṭimantetun”ti.
Rồi những Bà-la-môn ấy đi đến thanh niên Assalāyana, sau khi đến nói với thanh niên Assalāyana:
Atha kho te brāhmaṇā yena assalāyano māṇavo tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā assalāyanaṁ māṇavaṁ etadavocuṁ:
“Tôn giả Assalāyana, Sa-môn Gotama chủ trương bốn giai cấp đều thanh tịnh.
“ayaṁ, bho assalāyana, samaṇo gotamo cātuvaṇṇiṁ suddhiṁ paññapeti.
Tôn giả Assalāyana hãy đến thảo luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này.”
Etu bhavaṁ assalāyano samaṇena gotamena saddhiṁ asmiṁ vacane paṭimantetū”ti.
Khi nghe nói vậy, thanh niên Assalāyana nói với các Bà-la-môn ấy:
Evaṁ vutte, assalāyano māṇavo te brāhmaṇe etadavoca:
“Sa-môn Gotama là vị nói đúng pháp.
“samaṇo khalu, bho, gotamo dhammavādī;
Và những ai nói đúng pháp thật rất khó thảo luận.
dhammavādino ca pana duppaṭimantiyā bhavanti.
Tôi không có thể thảo luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này.”
Nāhaṁ sakkomi samaṇena gotamena saddhiṁ asmiṁ vacane paṭimantetun”ti.
Lần thứ hai các Bà-la-môn nói với thanh niên Assalāyana:
Dutiyampi kho te brāhmaṇā assalāyanaṁ māṇavaṁ etadavocuṁ:
“Tôn giả Assalāyana, Sa-môn Gotama này chủ trương bốn giai cấp đều thanh tịnh.
“ayaṁ, bho assalāyana, samaṇo gotamo cātuvaṇṇiṁ suddhiṁ paññapeti.
Tôn giả Assalāyana hãy đến thảo luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này.
Etu bhavaṁ assalāyano samaṇena gotamena saddhiṁ asmiṁ vacane paṭimantetu.
Tôn giả Assalāyana đã sống đời sống của vị du hành khất sĩ.”
Caritaṁ kho pana bhotā assalāyanena paribbājakan”ti.
Lần thứ hai, thanh niên Assalāyana nói với các vị Bà-la-môn ấy:
Dutiyampi kho assalāyano māṇavo te brāhmaṇe etadavoca:
“Sa-môn Gotama là bậc nói đúng pháp.
“samaṇo khalu, bho, gotamo dhammavādī;
Và những người nói đúng pháp thật rất khó thảo luận.
dhammavādino ca pana duppaṭimantiyā bhavanti.
Tôi không có thể thảo luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này.”
Nāhaṁ sakkomi samaṇena gotamena saddhiṁ asmiṁ vacane paṭimantetun”ti.
Lần thứ ba, những vị Bà-la-môn ấy nói với thanh niên Assalāyana:
Tatiyampi kho te brāhmaṇā assalāyanaṁ māṇavaṁ etadavocuṁ:
“Tôn giả Assalāyana, Sa-môn Gotama này chủ trương bốn giai cấp đều thanh tịnh.
“ayaṁ, bho assalāyana, samaṇo gotamo cātuvaṇṇiṁ suddhiṁ paññapeti.
Tôn giả Assalāyana, hãy đến thảo luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này.
Etu bhavaṁ assalāyano samaṇena gotamena saddhiṁ asmiṁ vacane paṭimantetu.
Tôn giả Assalāyana đã sống đời sống của vị du hành khất sĩ.
Caritaṁ kho pana bhotā assalāyanena paribbājakaṁ.
Tôn giả Assalāyana chớ có bị chiến bại trong một cuộc chiến bại không có binh khí chống cự.”
Mā bhavaṁ assalāyano ayuddhaparājitaṁ parājayī”ti.
Tôn giả Assalāyana chớ có bị chiến bại trong một cuộc chiến bại không có binh khí chống cự.
Evaṁ vutte, assalāyano māṇavo te brāhmaṇe etadavoca:
Thật sự tôi không chấp nhận được (lời yêu cầu) chư Tôn giả.
“addhā kho ahaṁ bhavanto na labhāmi.
Tôn giả Gotama là bậc nói đúng pháp.
Samaṇo khalu, bho, gotamo dhammavādī;
Và những ai nói đúng pháp thật rất khó thảo luận.
dhammavādino ca pana duppaṭimantiyā bhavanti.
Tôi không có thể thảo luận với Sa-môn Gotama về vấn đề này.
Nāhaṁ sakkomi samaṇena gotamena saddhiṁ asmiṁ vacane paṭimantetunti.
Tuy vậy tôi cũng sẽ đi, như lời chư Tôn giả yêu cầu.”
Api cāhaṁ bhavantānaṁ vacanena gamissāmī”ti.
Rồi thanh niên Assalāyana cùng với đại chúng Bà-la-môn đi đến Thế Tôn, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Assalāyana bạch Thế Tôn:
Atha kho assalāyano māṇavo mahatā brāhmaṇagaṇena saddhiṁ yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṁ sammodi. Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho assalāyano māṇavo bhagavantaṁ etadavoca:
“Thưa Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn nói như sau:
“brāhmaṇā, bho gotama, evamāhaṁsu:
‘Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt;
‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo;
chỉ có Bà-la-môn là màu da trắng, giai cấp khác là màu da đen;
brāhmaṇova sukko vaṇṇo, kaṇho añño vaṇṇo;
chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp phi Bà-la-môn không được như vậy.
brāhmaṇova sujjhanti, no abrāhmaṇā;
Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính thống Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự Phạm thiên”.
brāhmaṇāva brahmuno puttā orasā mukhato jātā brahmajā brahmanimmitā brahmadāyādā’ti.
Ở đây, Tôn giả Gotama nói thế nào?”
Idha bhavaṁ gotamo kimāhā”ti?
“Nhưng này Assalāyana, các nữ Bà-la-môn, vợ các Bà-la-môn được thấy là có kinh nguyệt, có mang thai, có sanh con, có cho con bú.
“Dissanti kho pana, assalāyana, brāhmaṇānaṁ brāhmaṇiyo utuniyopi gabbhiniyopi vijāyamānāpi pāyamānāpi.
Dầu vậy, các vị Bà-la-môn ấy sanh ra từ nữ căn lại nói:
Te ca brāhmaṇiyonijāva samānā evamāhaṁsu:
‘Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt.
‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo;
Chỉ có Bà-la-môn là màu da trắng, giai cấp khác là màu da đen;
brāhmaṇova sukko vaṇṇo, kaṇho añño vaṇṇo;
chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp phi Bà-la-môn không được như vậy.
brāhmaṇāva sujjhanti, no abrāhmaṇā;
Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính thống Phạm thiên, sanh từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự Phạm thiên”.
brāhmaṇāva brahmuno puttā orasā mukhato jātā brahmajā brahmanimmitā brahmadāyādā’”ti.
“Dầu Tôn giả Gotama có nói như vậy, nhưng các vị Bà-la-môn vẫn tự nghĩ rằng:
“Kiñcāpi bhavaṁ gotamo evamāha, atha khvettha brāhmaṇā evametaṁ maññanti:
‘Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt… là con cháu thừa tự Phạm thiên’”.
‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo …pe… brahmadāyādā’”ti.
“Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, assalāyana,
Ông có nghe chăng? Tại các biên địa quốc độ khác như Yona và Kamboja, chỉ có hai giai cấp: chủ nhân và đầy tớ. Sau khi làm chủ nhân, lại trở thành đầy tớ; sau khi làm đầy tớ, lại trở thành chủ nhân?”
sutaṁ te: ‘yonakambojesu aññesu ca paccantimesu janapadesu dveva vaṇṇā—ayyo ceva dāso ca; ayyo hutvā dāso hoti, dāso hutvā ayyo hotī’”ti?
“Thưa vâng, con có nghe. Trong các quốc độ biên địa như Yona, Kamboja, chỉ có hai giai cấp: chủ nhân và đầy tớ. Sau khi làm chủ nhân, lại trở thành đầy tớ, sau khi làm đầy tớ, lại trở thành chủ nhân.”
“Evaṁ, bho, sutaṁ taṁ me: ‘yonakambojesu aññesu ca paccantimesu janapadesu dveva vaṇṇā—ayyo ceva dāso ca; ayyo hutvā dāso hoti, dāso hutvā ayyo hotī’”ti.
“Ở đây, này Assalāyana, do sức mạnh gì, do xác tín gì của các Bà-la-môn, mà ở đây các vị Bà-la-môn lại nói: “Chỉ có giai cấp Bà-la-môn là tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt … là con cháu thừa tự Phạm thiên”?
“Ettha, assalāyana, brāhmaṇānaṁ kiṁ balaṁ, ko assāso yadettha brāhmaṇā evamāhaṁsu: ‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo …pe… brahmadāyādā’”ti?
“Dầu Tôn giả Gotama có nói như vậy, nhưng ở đây vị Bà-la-môn vẫn nghĩ như sau: “Chỉ có giai cấp Bà-la-môn là tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt … là con cháu thừa tự Phạm thiên”.
“Kiñcāpi bhavaṁ gotamo evamāha, atha khvettha brāhmaṇā evametaṁ maññanti: ‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo …pe… brahmadāyādā’”ti.
“Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, assalāyana,
Chỉ có người Khattiya (Sát-đế-lỵ) sát sanh, lấy của không cho, có tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tâm tham, có tâm sân, có tà kiến: sau khi thân hoại mạng chung mới bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Bà-la-môn không phải như vậy?
khattiyova nu kho pāṇātipātī adinnādāyī kāmesumicchācārī musāvādī pisuṇavāco pharusavāco samphappalāpī abhijjhālu byāpannacitto micchādiṭṭhi kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjeyya, no brāhmaṇo?
Và chỉ có người Vessa và người Sudda sát sanh, lấy của không cho, có tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham tâm, có sân tâm, có tà kiến, sau khi thân hoại mang chung, mới bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Các Bà-la-môn không phải như vậy?”
Vessova nu kho …pe… suddova nu kho pāṇātipātī adinnādāyī kāmesumicchācārī musāvādī pisuṇavāco pharusavāco samphappalāpī abhijjhālu byāpannacitto micchādiṭṭhi kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjeyya, no brāhmaṇo”ti?
“Không phải như vậy, Tôn giả Gotama.
“No hidaṁ, bho gotama.
Người Khattiya cũng vậy, Tôn giả Gotama, nếu sát sanh, lấy của không cho, có tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham tâm, có sân tâm, có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, cũng bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Khattiyopi hi, bho gotama, pāṇātipātī adinnādāyī kāmesumicchācārī musāvādī pisuṇavāco pharusavāco samphappalāpī abhijjhālu byāpannacitto micchādiṭṭhi kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjeyya.
Bà-la-môn cũng vậy, Tôn giả Gotama, …
Brāhmaṇopi hi, bho gotama …pe…
Vessa cũng vậy, Tôn giả Gotama, …
vessopi hi, bho gotama …pe…
Sudda cũng vậy, Tôn giả Gotama …
suddopi hi, bho gotama …pe…
Tất cả bốn giai cấp, Tôn giả Gotama, nếu sát sanh, lấy của không cho, có tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham tâm, có sân tâm, có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.”
sabbepi hi, bho gotama, cattāro vaṇṇā pāṇātipātino adinnādāyino kāmesumicchācārino musāvādino pisuṇavācā pharusavācā samphappalāpino abhijjhālū byāpannacittā micchādiṭṭhī kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjeyyun”ti.
“Ở đây, này Assalāyana, do sức mạnh gì, do xác tín gì của Bà-la-môn, mà các Bà-la-môn lại nói: ‘Chỉ có giai cấp Bà-la-môn là tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt… là con cháu thừa tự Phạm thiên’”?
“Ettha, assalāyana, brāhmaṇānaṁ kiṁ balaṁ, ko assāso yadettha brāhmaṇā evamāhaṁsu: ‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo …pe… brahmadāyādā’”ti?
“Dầu Tôn giả Sa-môn có nói như vậy, nhưng ở đây, các Bà-la-môn vẫn nghĩ như sau: ‘Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt … là con cháu thừa tự Phạm thiên’”.
“Kiñcāpi bhavaṁ gotamo evamāha, atha khvettha brāhmaṇā evametaṁ maññanti: ‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo …pe… brahmadāyādā’”ti.
“Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, assalāyana,
Chỉ có Bà-la-môn từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham tâm, không có sân tâm, có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Khattiya không được vậy, Vessa không được vậy, Sudda không được vậy?”
brāhmaṇova nu kho pāṇātipātā paṭivirato adinnādānā paṭivirato kāmesumicchācārā paṭivirato musāvādā paṭivirato pisuṇāya vācāya paṭivirato pharusāya vācāya paṭivirato samphappalāpā paṭivirato anabhijjhālu abyāpannacitto sammādiṭṭhi kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjeyya, no khattiyo, no vesso, no suddo”ti?
“Không phải vậy, Tôn giả Gotama.
“No hidaṁ, bho gotama.
Khattiya cũng vậy, Tôn giả Gotama, nếu từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham tâm, không có sân tâm, có chánh kiến, thì sau khi thân hoại mạng chung cũng được sanh vào thiện thú, Thiên giới; cõi đời này.
Khattiyopi hi, bho gotama, pāṇātipātā paṭivirato adinnādānā paṭivirato kāmesumicchācārā paṭivirato musāvādā paṭivirato pisuṇāya vācāya paṭivirato pharusāya vācāya paṭivirato samphappalāpā paṭivirato anabhijjhālu abyāpannacitto sammādiṭṭhi kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjeyya.
Bà-la-môn cũng vậy, Tôn giả Gotama; …
Brāhmaṇopi hi, bho gotama …pe…
Vessa cũng vậy, Tôn giả Gotama; …
vessopi hi, bho gotama …pe…
Sudda cũng vậy, Tôn giả Gotama …
suddopi hi, bho gotama …pe…
Tất cả bốn giai cấp, Tôn giả Gotama, nếu từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham tâm, không có sân tâm, có chánh kiến, thì sau khi thân hoại mạng chung, đều được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.”
sabbepi hi, bho gotama, cattāro vaṇṇā pāṇātipātā paṭiviratā adinnādānā paṭiviratā kāmesumicchācārā paṭiviratā musāvādā paṭiviratā pisuṇāya vācāya paṭiviratā pharusāya vācāya paṭiviratā samphappalāpā paṭiviratā anabhijjhālū abyāpannacittā sammādiṭṭhī kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjeyyun”ti.
“Ở đây, này Assalāyana, do sức mạnh gì, do xác tín gì của Bà-la-môn, mà các Bà-la-môn lại nói: ‘Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt … là con cháu thừa tự Phạm thiên’?”
“Ettha, assalāyana, brāhmaṇānaṁ kiṁ balaṁ, ko assāso yadettha brāhmaṇā evamāhaṁsu: ‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo …pe… brahmadāyādā’”ti?
“Dầu Tôn giả Gotama có nói như vậy, nhưng ở đây, các Bà-la-môn vẫn nghĩ rằng: ‘Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt… là con cháu thừa tự Phạm thiên’”.
“Kiñcāpi bhavaṁ gotamo evamāha, atha khvettha brāhmaṇā evametaṁ maññanti: ‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo …pe… brahmadāyādā’”ti.
“Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, assalāyana,
Chỉ có Bà-la-môn mới có thể trong quốc độ này tu tập từ tâm, không hận, không sân, Khattiya không thể được, Vessa không thể được, Sudda không thể được?”
brāhmaṇova nu kho pahoti asmiṁ padese averaṁ abyābajjhaṁ mettacittaṁ bhāvetuṁ, no khattiyo, no vesso, no suddo”ti?
“Không phải vậy, Tôn giả Gotama.
“No hidaṁ, bho gotama.
Khattiya, Tôn giả Gotama, cũng có thể trong quốc độ này tu tập từ tâm, không hận, không sân.
Khattiyopi hi, bho gotama, pahoti asmiṁ padese averaṁ abyābajjhaṁ mettacittaṁ bhāvetuṁ;
Bà-la-môn cũng vậy, Tôn giả Gotama;
brāhmaṇopi hi, bho gotama …
Vessa cũng vậy, Tôn giả Gotama;
vessopi hi, bho gotama …
Sudda cũng vậy, Tôn giả Gotama.
suddopi hi, bho gotama …
Tất cả bốn giai cấp, Tôn giả Gotama, đều có thể trong quốc độ này tu tập từ tâm, không hận, không sân.”
sabbepi hi, bho gotama, cattāro vaṇṇā pahonti asmiṁ padese averaṁ abyābajjhaṁ mettacittaṁ bhāvetun”ti.
“Ở đây, này Assalāyana, do sức mạnh gì, do xác tín gì của Bà-la-môn, mà ở đây các Bà-la-môn lại nói như sau: ‘Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt… là con cháu thừa tự Phạm thiên’?”
“Ettha, assalāyana, brāhmaṇānaṁ kiṁ balaṁ, ko assāso yadettha brāhmaṇā evamāhaṁsu: ‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo …pe… brahmadāyādā’”ti?
“Dầu Tôn giả Gotama có nói như vậy, nhưng ở đây các Bà-la-môn vẫn nghĩ rằng: ‘Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt… là con cháu thừa tự Phạm thiên’.”
“Kiñcāpi bhavaṁ gotamo evamāha, atha khvettha brāhmaṇā evametaṁ maññanti: ‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo …pe… brahmadāyādā’”ti.
“Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, assalāyana,
Chỉ có Bà-la-môn mới có thể, sau khi cầm cào lưng và bột tắm đi đến sông tắm sạch bụi bặm, Khattiya không thể được, Vessa không thể được, Sudda không thể được?”
brāhmaṇova nu kho pahoti sottisināniṁ ādāya nadiṁ gantvā rajojallaṁ pavāhetuṁ, no khattiyo, no vesso, no suddo”ti?
“Không phải vậy, thưa Tôn giả Gotama.
“No hidaṁ, bho gotama.
Tôn giả Gotama, Khattiya cũng có thể, sau khi cầm cào lưng và bột tắm, đi đến sông tắm sạch bụi bặm. Bà-la-môn cũng vậy, Tôn giả Gotama;
Khattiyopi hi, bho gotama, pahoti sottisināniṁ ādāya nadiṁ gantvā rajojallaṁ pavāhetuṁ, brāhmaṇopi hi, bho gotama …
Vessa cũng vậy, Tôn giả Gotama; …
vessopi hi, bho gotama …
Sudda cũng vậy, Tôn giả Gotama.
suddopi hi, bho gotama …
Tất cả bốn giai cấp, Tôn giả Gotama, đều có thể, sau khi cầm cào lưng và bột tắm, đi đến sông tắm sạch bụi bặm.”
sabbepi hi, bho gotama, cattāro vaṇṇā pahonti sottisināniṁ ādāya nadiṁ gantvā rajojallaṁ pavāhetun”ti.
“Ở đây, này Assalāyana, do sức mạnh gì, xác tín gì của các Bà-la-môn, mà ở đây các Bà-la-môn lại nói như sau: ‘Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt… là con cháu thừa tự Phạm thiên’?”
“Ettha, assalāyana, brāhmaṇānaṁ kiṁ balaṁ, ko assāso yadettha brāhmaṇā evamāhaṁsu: ‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo …pe… brahmadāyādā’”ti?
“Dầu Tôn giả Gotama có nói như vậy, nhưng ở đây các Bà-la-môn vẫn nghĩ như sau: ‘Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt… là con cháu thừa tự Phạm thiên’.”
“Kiñcāpi bhavaṁ gotamo evamāha, atha khvettha brāhmaṇā evametaṁ maññanti: ‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo …pe… brahmadāyādā’”ti.
“Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, assalāyana,
Ở đây, nếu có vua Khattiya đã làm lễ quán đảnh, cho hội họp một trăm người thuộc nhiều chủng tánh khác nhau và nói:
idha rājā khattiyo muddhāvasitto nānājaccānaṁ purisānaṁ purisasataṁ sannipāteyya:
‘Quý vị hãy đến đây, quý vị nào thuộc gia đình Khattiya, thuộc gia đình Bà-la-môn, sanh ra từ hoàng tộc, hãy đem đến phần trên của đồ quay lửa, bằng cây sala, hay cây salala, hay cây chiên-đàn, hay cây sen, quay cho lửa và sức nóng hiện ra.
‘āyantu bhonto ye tattha khattiyakulā brāhmaṇakulā rājaññakulā uppannā, sākassa vā sālassa vā salaḷassa vā candanassa vā padumakassa vā uttarāraṇiṁ ādāya, aggiṁ abhinibbattentu, tejo pātukarontu.
Còn những người thuộc gia đình Chiên-đà-la (hạ tiện), thuộc gia đình săn bắn, thuộc gia đình làm đồ tre, thuộc gia đình làm xe cộ, thuộc gia đình đổ phân, hãy đem đến bộ phận trên của đồ quay lửa làm bằng gỗ máng chó ăn, hay máng heo ăn, hay máng giặt đồ, hay củi khô từ cây y lan (elanda: cây thu đủ thầu dầu), và quay cho bậc lửa và sức nóng hiện ra’.
Āyantu pana bhonto ye tattha caṇḍālakulā nesādakulā venakulā rathakārakulā pukkusakulā uppannā, sāpānadoṇiyā vā sūkaradoṇiyā vā rajakadoṇiyā vā eraṇḍakaṭṭhassa vā uttarāraṇiṁ ādāya, aggiṁ abhinibbattentu, tejo pātukarontū’ti.
Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññasi, assalāyana,
Có phải chỉ có ngọn lửa được nhen lên và sức nóng được tạo ra từ người thuộc gia đình Khattiya, thuộc gia đình Bà-la-môn sanh từ hoàng tộc, sau khi đem đến bộ phận trên của đồ quay lửa, làm bằng cây sala, hay cây salala, hay cây chiên-đàn, hay cây sen, chỉ có lửa ấy mới có ngọn, mới có màu sắc, mới có ánh sáng, và chỉ có ngọn lửa ấy mới dùng được vào các công việc do lửa đem lại. Còn ngọn lửa được nhen lên và sức nóng được tạo ra từ người thuộc gia đình hạ tiện, thuộc gia đình săn bắn, thuộc gia đình làm đồ tre, thuộc gia đình làm xe cộ, thuộc gia đình làm đổ phân, sau khi đem đến bộ phận trên của đồ quay lửa làm bằng gỗ máng chó ăn, hay máng heo ăn, hay máng giặt đồ, hay củi khô từ cây y-lan, lửa ấy không có ngọn, không có màu sắc, không có ánh sáng, và ngọn lửa ấy không có thể dùng được vào các công việc do lửa đem lại?”
yo evaṁ nu kho so khattiyakulā brāhmaṇakulā rājaññakulā uppannehi sākassa vā sālassa vā salaḷassa vā candanassa vā padumakassa vā uttarāraṇiṁ ādāya aggi abhinibbatto, tejo pātukato, so eva nu khvāssa aggi accimā ceva vaṇṇavā ca pabhassaro ca, tena ca sakkā agginā aggikaraṇīyaṁ kātuṁ; yo pana so caṇḍālakulā nesādakulā venakulā rathakārakulā pukkusakulā uppannehi sāpānadoṇiyā vā sūkaradoṇiyā vā rajakadoṇiyā vā eraṇḍakaṭṭhassa vā uttarāraṇiṁ ādāya aggi abhinibbatto, tejo pātukato svāssa aggi na ceva accimā na ca vaṇṇavā na ca pabhassaro, na ca tena sakkā agginā aggikaraṇīyaṁ kātun”ti?
“Không phải vậy, thưa Tôn giả Gotama.
“No hidaṁ, bho gotama.
Ngọn lửa được nhen lên, sức nóng được tạo ra, Tôn giả Gotama, từ người thuộc gia đình Khattiya, thuộc gia đình Bà-la-môn sanh từ hoàng tộc, sau khi đem đến bộ phận trên của đồ quay lửa, làm bằng cây sala, hay cây salala, hay cây chiên-đàn, hay cây sen, lửa ấy có ngọn, có màu sắc, có ánh sáng, ngọn lửa ấy dùng được vào các công việc do lửa đem lại.
Yopi hi so, bho gotama, khattiyakulā brāhmaṇakulā rājaññakulā uppannehi sākassa vā sālassa vā salaḷassa vā candanassa vā padumakassa vā uttarāraṇiṁ ādāya aggi abhinibbatto, tejo pātukato svāssa aggi accimā ceva vaṇṇavā ca pabhassaro ca, tena ca sakkā agginā aggikaraṇīyaṁ kātuṁ;
Và ngọn lửa được nhen lên, và sức nóng được tạo ra từ người thuộc gia đình hạ tiện, thuộc gia đình săn bắn, thuộc gia đình làm đồ tre, thuộc gia đình làm xe cộ, thuộc gia đình đổ phân, sau khi đem đến bộ phận trên của đồ quay lửa, làm bằng gỗ máng chó ăn, hay máng heo ăn, hay máng giặt đồ, hay củi khô từ cây y-lan, lửa ấy cũng có ngọn, cũng có màu sắc, cũng có ánh sáng, và ngọn lửa ấy có thể dùng được vào công việc do lửa đem lại.
yopi so caṇḍālakulā nesādakulā venakulā rathakārakulā pukkusakulā uppannehi sāpānadoṇiyā vā sūkaradoṇiyā vā rajakadoṇiyā vā eraṇḍakaṭṭhassa vā uttarāraṇiṁ ādāya aggi abhinibbatto, tejo pātukato, svāssa aggi accimā ceva vaṇṇavā ca pabhassaro ca, tena ca sakkā agginā aggikaraṇīyaṁ kātuṁ.
Thưa Tôn giả Gotama, tất cả loại lửa đều có ngọn, đều có màu sắc, đều có ánh sáng; tất cả loại lửa đều có thể được dùng vào các công việc do lửa đem lại.”
Sabbopi hi, bho gotama, aggi accimā ceva vaṇṇavā ca pabhassaro ca, sabbenapi sakkā agginā aggikaraṇīyaṁ kātun”ti.
Ở đây, này Assalāyana, do sức mạnh gì, do xác tín gì của các Bà-la-môn mà các Bà-la-môn ở đây lại nói:
“Ettha, assalāyana, brāhmaṇānaṁ kiṁ balaṁ, ko assāso yadettha brāhmaṇā evamāhaṁsu:
‘Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt.
‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo;
Chỉ có Bà-la-môn là da trắng, giai cấp khác là da đen.
brāhmaṇova sukko vaṇṇo, kaṇho añño vaṇṇo;
Chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp phi Bà-la-môn không phải như vậy.
brāhmaṇāva sujjhanti, no abrāhmaṇā;
Chỉ có Bà-la-môn mới là con chính thống Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự Phạm thiên”?
brāhmaṇāva brahmuno puttā orasā mukhato jātā brahmajā brahmanimmitā brahmadāyādā’”ti?
“Dầu Tôn giả Gotama có nói như vậy, nhưng ở đây các Bà-la-môn vẫn nghĩ như sau: ‘Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt … là con cháu thừa tự Phạm thiên’.”
“Kiñcāpi bhavaṁ gotamo evamāha, atha khvettha brāhmaṇā evametaṁ maññanti: ‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo …pe… brahmadāyādā’”ti.
“Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, assalāyana,
Ở đây một nam tử Khattiya cưới một nữ nhân Bà-la-môn làm vợ. Do hôn phối này, họ sanh được đứa con trai.
idha khattiyakumāro brāhmaṇakaññāya saddhiṁ saṁvāsaṁ kappeyya, tesaṁ saṁvāsamanvāya putto jāyetha;
Ðứa con trai ấy sanh ra từ nam tử Khattiya và nữ nhân Bà-la-môn. Nó giống mẹ nó hay giống cha nó; nó được gọi là Khattiya hay được gọi là Ba La Môn?”
yo so khattiyakumārena brāhmaṇakaññāya putto uppanno, siyā so mātupi sadiso pitupi sadiso, ‘khattiyo’tipi vattabbo ‘brāhmaṇo’tipi vattabbo”ti?
“Thưa Tôn giả Gotama, đứa con trai ấy sanh ra từ nam tử Khattiya và nữ nhân Bà-la-môn; nó giống mẹ nó và cũng giống cha nó, và được gọi là Khattiya và cũng được gọi là Bà-la-môn.”
“Yo so, bho gotama, khattiyakumārena brāhmaṇakaññāya putto uppanno, siyā so mātupi sadiso pitupi sadiso, ‘khattiyo’tipi vattabbo ‘brāhmaṇo’tipi vattabbo”ti.
“Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, assalāyana,
Ở đây, một nam tử Bà-la-môn cưới một nữ nhân Khattiya và do hôn phối này, họ sanh được đứa con trai.
idha brāhmaṇakumāro khattiyakaññāya saddhiṁ saṁvāsaṁ kappeyya, tesaṁ saṁvāsamanvāya putto jāyetha;
Người con trai ấy được sanh từ nam tử Bà-la-môn và nữ nhân Khattiya; nó giống mẹ nó, hay giống cha nó; nó được gọi là Khattiya, (hay) cũng được gọi là Bà-la-môn?”
yo so brāhmaṇakumārena khattiyakaññāya putto uppanno, siyā so mātupi sadiso pitupi sadiso, ‘khattiyo’tipi vattabbo ‘brāhmaṇo’tipi vattabbo”ti?
“Thưa Tôn giả Gotama, người con trai sanh ra từ nam tử Bà-la-môn và nữ nhân Khattiya; nó giống mẹ nó; và giống cha nó, và nó được gọi là Khattiya, và cũng được gọi là Bà-la-môn.”
“Yo so, bho gotama, brāhmaṇakumārena khattiyakaññāya putto uppanno, siyā so mātupi sadiso pitupi sadiso, ‘khattiyo’tipi vattabbo ‘brāhmaṇo’tipi vattabbo”ti.
“Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, assalāyana,
Ở đây, có con ngựa cái giao phối với con lừa. Do sự giao phối này, chúng sanh được con la.
idha vaḷavaṁ gadrabhena sampayojeyyuṁ, tesaṁ sampayogamanvāya kisoro jāyetha;
Con la ấy sanh ra từ con ngựa cái và con lừa; nó giống mẹ nó, hay giống cha nó; nó được gọi là ngựa, hay nó được gọi là lừa?”
yo so vaḷavāya gadrabhena kisoro uppanno, siyā so mātupi sadiso pitupi sadiso, ‘asso’tipi vattabbo ‘gadrabho’tipi vattabbo”ti?
“Tôn giả Gotama, do sự giao phối khác giống như vậy, nó là con la.
“Kuṇḍañhi so, bho gotama, assataro hoti.
Ðó là sự sai khác, thưa Tôn giả Gotama, mà tôi thấy ở đây.
Idaṁ hissa, bho gotama, nānākaraṇaṁ passāmi;
Nhưng ở chỗ khác, đối với sự vật khác, tôi không thấy sai biệt gì.”
amutra ca panesānaṁ na kiñci nānākaraṇaṁ passāmī”ti.
“Này Assalāyana, Ông nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, assalāyana,
Ở đây, có hai anh em thanh niên, đồng mẹ khác cha; một người đọc tụng, thông hiểu Thánh điển; một người không đọc tụng, không hiểu Thánh điển.
idhāssu dve māṇavakā bhātaro sodariyā, eko ajjhāyako upanīto eko anajjhāyako anupanīto.
Ở đây, giữa hai vị này, các Bà-la-môn sẽ cúng dường ai trước các vật cúng cho người chết, các thực vật tế đàn, các món ăn trong các lễ hy sinh, các đồ ăn đãi khách?”
Kamettha brāhmaṇā paṭhamaṁ bhojeyyuṁ saddhe vā thālipāke vā yaññe vā pāhune vā”ti?
“Thưa Tôn giả Gotama, vị thanh niên nào đọc tụng, thông hiểu Thánh điển, các Bà-la-môn sẽ cúng dường người ấy trước, các vật cúng cho người chết, các thực vật tế đàn, các món ăn trong các lễ hy sinh, các đồ ăn đãi khách.
“Yo so, bho gotama, māṇavako ajjhāyako upanīto tamettha brāhmaṇā paṭhamaṁ bhojeyyuṁ saddhe vā thālipāke vā yaññe vā pāhune vā.
Bởi vì, thưa Tôn giả Gotama, cúng dường cho người không đọc tụng, không thông hiểu Thánh điển làm sao có quả lớn được?”
Kiñhi, bho gotama, anajjhāyake anupanīte dinnaṁ mahapphalaṁ bhavissatī”ti?
“Này Assalāyana, nhà ngươi nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññasi, assalāyana,
Ở đây, có hai anh em thanh niên (Bà-la-môn) đồng mẹ khác cha; một người đọc tụng thông hiểu Thánh điển, theo ác giới, hành ác pháp; một người không đọc tụng, không thông hiểu Thánh điển, trì giới, hành thiện pháp.
idhāssu dve māṇavakā bhātaro sodariyā, eko ajjhāyako upanīto dussīlo pāpadhammo, eko anajjhāyako anupanīto sīlavā kalyāṇadhammo.
Ở đây, các người Bà-la-môn cúng dường cho ai trước các vật cúng cho người chết, các thực vật tế đàn, các món ăn trong các lễ hy sinh, hay các đồ ăn đãi khách?”
Kamettha brāhmaṇā paṭhamaṁ bhojeyyuṁ saddhe vā thālipāke vā yaññe vā pāhune vā”ti?
“Thưa Tôn giả Gotama, vị thanh niên nào không đọc tụng, không thông hiểu Thánh điển, nhưng trì giới, hành thiện pháp; ở đây, các Bà-la-môn cúng dường cho người ấy trước, các vật cúng cho người chết, các thực vật tế đàn, các món ăn trong các lễ hy sinh, hay các đồ ăn đãi khách.
“Yo so, bho gotama, māṇavako anajjhāyako anupanīto sīlavā kalyāṇadhammo tamettha brāhmaṇā paṭhamaṁ bhojeyyuṁ saddhe vā thālipāke vā yaññe vā pāhune vā.
Bởi vì, thưa Tôn giả Gotama, cúng dường cho người theo ác giới, hành ác pháp làm sao có quả lớn được?”
Kiñhi, bho gotama, dussīle pāpadhamme dinnaṁ mahapphalaṁ bhavissatī”ti?
“Này Assalāyana, trước hết Ông đi về sanh chủng.
“Pubbe kho tvaṁ, assalāyana, jātiṁ agamāsi;
Bỏ sanh chủng, Ông đi về Thánh điển.
jātiṁ gantvā mante agamāsi;
Bỏ Thánh điển, Ông đi về sự thanh tịnh.
mante gantvā tape agamāsi;
Bây giờ, Ông đi về sự thanh tịnh của bốn giai cấp mà Ta đã chủ trương.”
tape gantvā cātuvaṇṇiṁ suddhiṁ paccāgato, yamahaṁ paññapemī”ti.
Nghe nói vậy, thanh niên Assalāyana ngồi im lặng, ủ rũ, co vai, cúi đầu, sửng sờ, mở miệng không ra lời.
Evaṁ vutte, assalāyano māṇavo tuṇhībhūto maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho pajjhāyanto appaṭibhāno nisīdi.
Rồi Thế Tôn sau khi biết được thanh niên Assalāyana im lặng ủ rũ, co vai, cúi đầu, sửng sờ, mở miệng không ra lời, liền nói với thanh niên Assalāyana:
Atha kho bhagavā assalāyanaṁ māṇavaṁ tuṇhībhūtaṁ maṅkubhūtaṁ pattakkhandhaṁ adhomukhaṁ pajjhāyantaṁ appaṭibhānaṁ viditvā assalāyanaṁ māṇavaṁ etadavoca:
“Thuở xưa, này Assalāyana, trong khi bảy ẩn sĩ Bà-la-môn thảo luận trong những am thất bằng lá tại một khu rừng, ác kiến sau đây được khởi lên:
“bhūtapubbaṁ, assalāyana, sattannaṁ brāhmaṇisīnaṁ araññāyatane paṇṇakuṭīsu sammantānaṁ evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ hoti:
“Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt … là con cháu thừa tự Phạm thiên”.
‘brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo … brahmadāyādā’ti.
Này Assalāyana, ẩn sĩ Asita Devala được nghe:
Assosi kho, assalāyana, asito devalo isi:
‘Trong khi bảy ẩn sĩ Bà-la-môn thảo luận trong những am thất bằng lá, tại một khu rừng, ác kiến sau đây được khởi lên:
‘sattannaṁ kira brāhmaṇisīnaṁ araññāyatane paṇṇakuṭīsu sammantānaṁ evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ—
Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt … con cháu thừa tự Phạm thiên’?
brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo …pe… brahmadāyādā’ti.
Ẩn sĩ Asita Devala, sau khi sửa soạn râu tóc, đắp y vải màu đỏ tía, đi dép với nhiều lớp (đường viền) kiên cố, cầm một cây gậy bằng vàng, liền hiện ra trong hành lang am thất của bảy vị ẩn sĩ Bà-la-môn.
Atha kho, assalāyana, asito devalo isi kesamassuṁ kappetvā mañjiṭṭhavaṇṇāni dussāni nivāsetvā paṭaliyo upāhanā āruhitvā jātarūpamayaṁ daṇḍaṁ gahetvā sattannaṁ brāhmaṇisīnaṁ patthaṇḍile pāturahosi.
Rồi này Assalāyana, ẩn sĩ Asita Devala đi qua, đi lại trong hành lang am thất của bảy vị ẩn sĩ Bà-la-môn và nói:
Atha kho, assalāyana, asito devalo isi sattannaṁ brāhmaṇisīnaṁ patthaṇḍile caṅkamamāno evamāha:
‘Nay những Tôn giả ẩn sĩ Bà-la-môn này đi đâu?
‘handa ko nu kho ime bhavanto brāhmaṇisayo gatā;
Nay những Tôn giả ẩn sĩ Bà-la-môn này đi đâu?’
handa ko nu kho ime bhavanto brāhmaṇisayo gatā’ti?
Rồi này Assalāyana, bảy vị ẩn sĩ Bà-la-môn suy nghĩ như sau:
Atha kho, assalāyana, sattannaṁ brāhmaṇisīnaṁ etadahosi:
‘Kẻ kia là ai đang đi qua lại trong hành lang am thất bảy vị ẩn sĩ Bà-la-môn như một con bò đi vòng tròn, lại nói như sau:
‘ko nāyaṁ gāmaṇḍalarūpo viya sattannaṁ brāhmaṇisīnaṁ patthaṇḍile caṅkamamāno evamāha:
“Nay những vị ẩn sĩ Bà-la-môn này đi đâu?
“handa ko nu kho ime bhavanto brāhmaṇisayo gatā;
Nay những vị ẩn sĩ Bà-la-môn này đi đâu?”
handa ko nu kho ime bhavanto brāhmaṇisayo gatāti?
Chúng ta hãy dùng chú thuật trù yếm Ông ta”.
Handa naṁ abhisapāmā”’ti.
Rồi này Assalāyana, bảy ẩn sĩ Bà-la-môn dùng chú thuật trù yếm ẩn sĩ Asita Devala:
Atha kho, assalāyana, satta brāhmaṇisayo asitaṁ devalaṁ isiṁ abhisapiṁsu:
‘Hãy trở thành tro tàn hạ liệt”.
‘bhasmā, vasala, hohi;
Hãy trở thành tro tàn hạ liệt.
bhasmā, vasala, hohī’ti.
Nhưng này Assalāyana, bảy ẩn sĩ càng dùng chú thuật trù yếm, ẩn sĩ Asita Devala càng trở thành đẹp đẽ, trở thành dễ nhìn, trở thành khả ái.
Yathā yathā kho, assalāyana, satta brāhmaṇisayo asitaṁ devalaṁ isiṁ abhisapiṁsu tathā tathā asito devalo isi abhirūpataro ceva hoti dassanīyataro ca pāsādikataro ca.
Rồi này Assalāyana, bảy vị ẩn sĩ Bà-la-môn suy nghĩ như sau:
Atha kho, assalāyana, sattannaṁ brāhmaṇisīnaṁ etadahosi:
‘Thật trống rỗng thay, khổ hạnh của chúng ta! Phạm hạnh của chúng ta không có hiệu quả.
‘moghaṁ vata no tapo, aphalaṁ brahmacariyaṁ.
Trước kia, khi chúng ta dùng chú thuật trù yếm người nào:
Mayañhi pubbe yaṁ abhisapāma—
Hãy trở thành tro tàn hạ liệt.
bhasmā, vasala, hohi;
Người ấy trở thành tro tàn ngay.
bhasmā, vasala, hohīti bhasmāva bhavati ekacco.
Nhưng nay chúng ta càng dùng chú thuật trù yếm người này, người này lại càng trở nên đẹp đẽ, trở thành dễ nhìn, trở thành khả ái’.
Imaṁ pana mayaṁ yathā yathā abhisapāma tathā tathā abhirūpataro ceva hoti dassanīyataro ca pāsādikataro cā’ti.
‘Khổ hạnh, chư Tôn giả, không phải trống rỗng, Phạm hạnh (quý vị) không phải không hiệu quả.
‘Na bhavantānaṁ moghaṁ tapo, nāphalaṁ brahmacariyaṁ.
Chư Tôn giả, hãy từ bỏ tâm oán hận đối với ta’.
Iṅgha bhavanto, yo mayi manopadoso taṁ pajahathā’ti.
‘Có tâm oán hận nào đối với Tôn giả, chúng tôi sẽ bỏ.
‘Yo bhavati manopadoso taṁ pajahāma.
Tôn giả là ai?’
Ko nu bhavaṁ hotī’ti?
‘Chư Tôn giả có nghe nói đến ẩn sĩ Asita Devala không?
‘Suto nu bhavataṁ—asito devalo isī’ti?
‘Thưa có nghe, Tôn giả.’
‘Evaṁ, bho’.
‘Chư Tôn giả, vị ấy là ta.’
‘So khvāhaṁ, bho, homī’ti.
Rồi này Assalāyana, bảy ẩn sĩ Bà-la-môn đến đảnh lễ ẩn sĩ Asita Devala.
Atha kho, assalāyana, satta brāhmaṇisayo asitaṁ devalaṁ isiṁ abhivādetuṁ upakkamiṁsu.
Rồi ẩn sĩ Asita Devala nói với bảy ẩn sĩ Bà-la-môn:
Atha kho, assalāyana, asito devalo isi satta brāhmaṇisayo etadavoca:
‘Chư Tôn giả, tôi có nghe như sau: Trong khi bảy vị ẩn sĩ Bà-la-môn thảo luận tại am thất bằng lá trong khu rừng, ác tà kiến như sau khởi lên:
‘sutaṁ metaṁ, bho, sattannaṁ kira brāhmaṇisīnaṁ araññāyatane paṇṇakuṭīsu sammantānaṁ evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ—
Chỉ có Bà-la-môn là giai cấp tối thượng, giai cấp khác là hạ liệt.
brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo;
Chỉ có Bà-la-môn màu da trắng, giai cấp khác màu da đen.
brāhmaṇova sukko vaṇṇo, kaṇho añño vaṇṇo;
Chỉ có Bà-la-môn là thanh tịnh, các giai cấp phi Bà-la-môn không được như vậy.
brāhmaṇāva sujjhanti, no abrāhmaṇā;
Chỉ có Bà-la-môn là con chính thống Phạm thiên, sanh ra từ miệng Phạm thiên, do Phạm thiên sanh, do Phạm thiên tạo ra, là con cháu thừa tự Phạm thiên’.
brāhmaṇāva brahmuno puttā orasā mukhato jātā brahmajā brahmanimmitā brahmadāyādā’ti.
‘Thưa vâng, Tôn giả.’
‘Evaṁ, bho’.
‘Nhưng chư Tôn giả, chư tôn giả có biết mẹ sanh của họ chỉ giao hợp với các Bà-la-môn, không với phi Bà-la-môn?’
‘Jānanti pana bhonto—yā janikā mātā brāhmaṇaṁyeva agamāsi, no abrāhmaṇan’ti?
‘Thưa không vậy, Tôn giả.’
‘No hidaṁ, bho’.
‘Nhưng chư Tôn giả, chư Tôn giả có biết mẹ sanh của họ, cho đến bảy đời tổ mẫu của họ chỉ giao hợp với các Bà-la-môn, không với phi Bà-la-môn?’
‘Jānanti pana bhonto—yā janikāmātu mātā yāva sattamā mātumātāmahayugā brāhmaṇaṁyeva agamāsi, no abrāhmaṇan’ti?
‘Thưa không vậy, Tôn giả.’
‘No hidaṁ, bho’.
‘Nhưng chư Tôn giả, chư Tôn giả có biết cha sanh của họ chỉ giao hợp với các nữ Bà-la-môn, không với phi nữ Bà-la-môn?’
‘Jānanti pana bhonto—yo janako pitā brāhmaṇiṁyeva agamāsi, no abrāhmaṇin’ti?
‘Thưa không vậy, Tôn giả.’
‘No hidaṁ, bho’.
‘Nhưng chư Tôn giả, chư Tôn giả có biết cha sanh của họ, cho đến bảy đời tổ phụ của họ chỉ giao hợp với các nữ Bà-la-môn, không với phi Bà-la-môn?’
‘Jānanti pana bhonto—yo janakapitu pitā yāva sattamā pitupitāmahayugā brāhmaṇiṁyeva agamāsi, no abrāhmaṇin’ti?
‘Không phải vậy, Tôn giả.’
‘No hidaṁ, bho’.
‘Chư Tôn giả, chư Tôn giả có biết nhập thai là như thế nào?’
‘Jānanti pana bhonto—yathā gabbhassa avakkanti hotī’ti?
‘Thưa Tôn giả, chúng con biết nhập thai như thế này.
‘Jānāma mayaṁ, bho—yathā gabbhassa avakkanti hoti.
Ở đây, mẹ cha phải giao hợp, người mẹ phải trong thời (có thể thọ sanh), thức tái sanh (gandhabha) phải hiện hữu, ba sự như vậy có hòa hợp, nhập thai mới thành tựu.’
Idha mātāpitaro ca sannipatitā honti, mātā ca utunī hoti, gandhabbo ca paccupaṭṭhito hoti; evaṁ tiṇṇaṁ sannipātā gabbhassa avakkanti hotī’ti.
‘Chư Tôn giả, chư Tôn giả có biết thức tái sanh ấy là Khattiya, hay Bà-la-môn, hay Vessa, hay Sudda?’
‘Jānanti pana bhonto—taggha, so gandhabbo khattiyo vā brāhmaṇo vā vesso vā suddo vā’ti?
‘Thưa Tôn giả, chúng tôi không biết hương ấm ấy là Khattiya, hay Bà-la-môn, hay Vessa, hay Sudda.’
‘Na mayaṁ, bho, jānāma—taggha so gandhabbo khattiyo vā brāhmaṇo vā vesso vā suddo vā’ti.
‘Chư Tôn giả, sự tình là như vậy, chư Tôn giả có biết chư Tôn giả là ai không?’
‘Evaṁ sante, bho, jānātha—ke tumhe hothā’ti?
‘Thưa Tôn giả, sự tình là như vậy, chúng tôi không có biết chúng tôi là ai.’
‘Evaṁ sante, bho, na mayaṁ jānāma—ke mayaṁ homā’ti.
Này Assalāyana, bảy vị ẩn sĩ Bà-la-môn ấy bị ẩn sĩ Asita Devala, chất vấn, cật vấn, nạn vấn về vấn đề sanh chủng (jativada) của họ, không có thể ứng đáp được.
Te hi nāma, assalāyana, satta brāhmaṇisayo asitena devalena isinā sake jātivāde samanuyuñjīyamānā samanuggāhīyamānā samanubhāsīyamānā na sampāyissanti;
Làm sao nay Ông bị ta chất vấn, cật vấn, nạn vấn về vấn đề sanh chủng của Ông lại có thể ứng đáp được, khi Ông cùng một Ðạo sư với họ và không có Puṇṇa, người biết sử dụng thìa đổ sữa (làm lễ tế tự).”
kiṁ pana tvaṁ etarahi mayā sakasmiṁ jātivāde samanuyuñjīyamāno samanuggāhīyamāno samanubhāsīyamāno sampāyissasi, yesaṁ tvaṁ sācariyako na puṇṇo dabbigāho”ti.
Khi được nói vậy, thanh niên Assalāyana bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, assalāyano māṇavo bhagavantaṁ etadavoca:
“Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo.
“abhikkantaṁ, bho gotama …pe…
Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con xin trọn đời quy ngưỡng.”
upāsakaṁ maṁ bhavaṁ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṁ saraṇaṁ gatan”ti.
Assalāyanasuttaṁ niṭṭhitaṁ tatiyaṁ.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt