Trung Bộ 64
Majjhima Nikāya 64
Đại Kinh Mālukya
Mahāmālukyasutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại tịnh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).
ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi:
“Này các Tỷ-kheo”.
“bhikkhavo”ti.
“Bạch Thế Tôn”. Những vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
“Bhadante”ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṁ.
Thế Tôn nói như sau:
Bhagavā etadavoca:
“Này các Tỷ-kheo, các Ông có thọ trì năm hạ phần kiết sử do Ta giảng dạy không?”
“dhāretha no tumhe, bhikkhave, mayā desitāni pañcorambhāgiyāni saṁyojanānī”ti?
Ðược nghe nói vậy, Tôn giả Māluṅkyaputta bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, āyasmā mālukyaputto bhagavantaṁ etadavoca:
“Con có thọ trì năm hạ phần kiết sử do Thế Tôn giảng dạy.”
“ahaṁ kho, bhante, dhāremi bhagavatā desitāni pañcorambhāgiyāni saṁyojanānī”ti.
“Năm hạ phần kiết sử do Ta giảng dạy, này Māluṅkyaputta, Ông thọ trì như thế nào?”
“Yathā kathaṁ pana tvaṁ, mālukyaputta, dhāresi mayā desitāni pañcorambhāgiyāni saṁyojanānī”ti?
“Bạch Thế Tôn, con thọ trì thân kiến là hạ phần kiết sử do Thế Tôn giảng dạy.
“Sakkāyadiṭṭhiṁ kho ahaṁ, bhante, bhagavatā orambhāgiyaṁ saṁyojanaṁ desitaṁ dhāremi;
Bạch Thế Tôn con thọ trì nghi là hạ phần kiết sử do Thế Tôn giảng dạy.
vicikicchaṁ kho ahaṁ, bhante, bhagavatā orambhāgiyaṁ saṁyojanaṁ desitaṁ dhāremi;
Bạch Thế Tôn, con thọ trì giới cấm thủ là hạ phần kiết sử do Thế Tôn giảng dạy.
sīlabbataparāmāsaṁ kho ahaṁ, bhante, bhagavatā orambhāgiyaṁ saṁyojanaṁ desitaṁ dhāremi;
Bạch Thế Tôn, con thọ trì dục tham là hạ phần kiết sử do Thế Tôn giảng dạy.
kāmacchandaṁ kho ahaṁ, bhante, bhagavatā orambhāgiyaṁ saṁyojanaṁ desitaṁ dhāremi;
Bạch Thế Tôn, con thọ trì sân là hạ phần kiết sử do Thế Tôn giảng dạy.
byāpādaṁ kho ahaṁ, bhante, bhagavatā orambhāgiyaṁ saṁyojanaṁ desitaṁ dhāremi.
Như vậy, bạch Thế Tôn, con thọ trì năm hạ phần kiết sử do Thế Tôn giảng dạy.”
Evaṁ kho ahaṁ, bhante, dhāremi bhagavatā desitāni pañcorambhāgiyāni saṁyojanānī”ti.
“Này Māluṅkyaputta, vì vấn đề gì (hay vì ai) Ông thọ trì năm hạ phần kiết này do Ta giảng dạy?
“Kassa kho nāma tvaṁ, mālukyaputta, imāni evaṁ pañcorambhāgiyāni saṁyojanāni desitāni dhāresi?
Này Māluṅkyaputta, có phải các tu sĩ ngoại đạo cật vấn Ông với ví dụ này về đứa con nít?
Nanu, mālukyaputta, aññatitthiyā paribbājakā iminā taruṇūpamena upārambhena upārambhissanti?
Này Māluṅkyaputta, nếu một đứa con nít ngây thơ đang nằm ngủ không có tự thân, thời đâu nó có thể khởi lên thân kiến?
Daharassa hi, mālukyaputta, kumārassa mandassa uttānaseyyakassa sakkāyotipi na hoti, kuto panassa uppajjissati sakkāyadiṭṭhi?
Thân kiến tùy miên thật sự sống tiềm tàng trong nó.
Anusetvevassa sakkāyadiṭṭhānusayo.
Này Māluṅkyaputta, nếu một đứa con nít ngây thơ, đang nằm ngửa không có các pháp, thời từ đâu nó có thể khởi lên nghi hoặc đối với các pháp?
Daharassa hi, mālukyaputta, kumārassa mandassa uttānaseyyakassa dhammātipi na hoti, kuto panassa uppajjissati dhammesu vicikicchā?
Nghi tùy miên thật sự sống tiềm tàng trong nó.
Anusetvevassa vicikicchānusayo.
Này Māluṅkyaputta, nếu một đứa con nít ngây thơ đang nằm ngửa không có giới, thời từ đâu nó có thể khởi lên giới cấm thủ trong các giới?
Daharassa hi, mālukyaputta, kumārassa mandassa uttānaseyyakassa sīlātipi na hoti, kuto panassa uppajjissati sīlesu sīlabbataparāmāso?
Giới cấm thủ tùy miên thật sự sống tiềm tàng trong nó.
Anusetvevassa sīlabbataparāmāsānusayo.
Này Māluṅkyaputta, nếu một đứa con nít ngây thơ đang nằm ngửa không có những dục, thời từ đâu nó có thể khởi lên lòng dục tham trong các dục?
Daharassa hi, mālukyaputta, kumārassa mandassa uttānaseyyakassa kāmātipi na hoti, kuto panassa uppajjissati kāmesu kāmacchando?
Dục tham, tùy miên thật sự sống tiềm tàng trong nó.
Anusetvevassa kāmarāgānusayo.
Này Māluṅkyaputta, nếu một đứa con nít ngây thơ đang nằm ngửa không có các loài hữu tình, thời từ đâu nó có thể khởi lên lòng sân đối với các loài hữu tình?
Daharassa hi, mālukyaputta, kumārassa mandassa uttānaseyyakassa sattātipi na hoti, kuto panassa uppajjissati sattesu byāpādo?
Sân tùy miên thật sự sống tiềm tàng trong nó.
Anusetvevassa byāpādānusayo.
Này Māluṅkyaputta, có phải các tu sĩ ngoại đạo cật vấn Ông với ví dụ này về đứa con nít?”
Nanu, mālukyaputta, aññatitthiyā paribbājakā iminā taruṇūpamena upārambhena upārambhissantī”ti?
Ðược nghe nói vậy, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, āyasmā ānando bhagavantaṁ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời, Bạch Thiện Thệ, nay đã đến thời để Thế Tôn thuyết giảng năm hạ phần kiết sử. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.”
“etassa, bhagavā, kālo, etassa, sugata, kālo yaṁ bhagavā pañcorambhāgiyāni saṁyojanāni deseyya. Bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantī”ti.
“Vậy Ānanda, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.”
“Tena hānanda, suṇāhi, sādhukaṁ manasi karohi; bhāsissāmī”ti.
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” Tôn giả Ānanda vâng đáp Thế Tôn.
“Evaṁ, bhante”ti kho āyasmā ānando bhagavato paccassosi.
Thế Tôn giảng như sau:
Bhagavā etadavoca:
“Ở đây, này Ānanda, có kẻ vô văn phàm phu, không đến yết kiến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đến yết kiến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân,
“Idhānanda, assutavā puthujjano ariyānaṁ adassāvī ariyadhammassa akovido ariyadhamme avinīto, sappurisānaṁ adassāvī sappurisadhammassa akovido sappurisadhamme avinīto
sống với tâm bị triền phược bởi thân kiến, bị chi phối bởi thân kiến,
sakkāyadiṭṭhipariyuṭṭhitena cetasā viharati sakkāyadiṭṭhiparetena;
và không như thật tuệ tri sự xuất ly thân kiến đã khởi lên.
uppannāya ca sakkāyadiṭṭhiyā nissaraṇaṁ yathābhūtaṁ nappajānāti.
Thân kiến này của vị ấy kiên cố, không được nhiếp phục, trở thành một hạ phần kiết sử.
Tassa sā sakkāyadiṭṭhi thāmagatā appaṭivinītā orambhāgiyaṁ saṁyojanaṁ.
Vị ấy sống với tâm bị nghi hoặc triền phược, bị nghi hoặc chi phối,
Vicikicchāpariyuṭṭhitena cetasā viharati vicikicchāparetena;
và không như thật tuệ tri sự xuất ly nghi hoặc đã khởi lên.
uppannāya ca vicikicchāya nissaraṇaṁ yathābhūtaṁ nappajānāti.
Nghi hoặc này của vị ấy kiên cố, không được nhiếp phục, trở thành một hạ phần kiết sử.
Tassa sā vicikicchā thāmagatā appaṭivinītā orambhāgiyaṁ saṁyojanaṁ.
Vị ấy sống với tâm bị giới cấm thủ triền phược, bị giới cấm thủ chi phối,
Sīlabbataparāmāsapariyuṭṭhitena cetasā viharati sīlabbataparāmāsaparetena;
và không như thật tuệ tri sự xuất ly giới cấm thủ đã khởi lên.
uppannassa ca sīlabbataparāmāsassa nissaraṇaṁ yathābhūtaṁ nappajānāti.
Giới cấm thủ này của vị ấy kiên cố, không được nhiếp phục, trở thành một hạ phần kiết sử.
Tassa so sīlabbataparāmāso thāmagato appaṭivinīto orambhāgiyaṁ saṁyojanaṁ.
Vị ấy sống với tâm bị dục tham triền phược, bị dục tham chi phối,
Kāmarāgapariyuṭṭhitena cetasā viharati kāmarāgaparetena;
và không như thật biết sự xuất ly dục tham đã khởi lên,
uppannassa ca kāmarāgassa nissaraṇaṁ yathābhūtaṁ nappajānāti.
dục tham này của vị ấy kiên cố, không được nhiếp phục, trở thành một hạ phần kiết sử.
Tassa so kāmarāgo thāmagato appaṭivinīto orambhāgiyaṁ saṁyojanaṁ.
Vị ấy sống với tâm bị sân triền phược,
Byāpādapariyuṭṭhitena cetasā viharati byāpādaparetena;
bị sân chi phối và không như thật tuệ tri, sự xuất ly sân đã khởi lên.
uppannassa ca byāpādassa nissaraṇaṁ yathābhūtaṁ nappajānāti.
Sân này của vị ấy kiên cố, không được nhiếp phục, trở thành một hạ phần kiết sử.
Tassa so byāpādo thāmagato appaṭivinīto orambhāgiyaṁ saṁyojanaṁ.
Và này Ānanda, có vị Ða văn Thánh đệ tử, đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đến yết kiến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân, sống với tâm không bị thân kiến triền phược, không bị thân kiến chi phối,
Sutavā ca kho, ānanda, ariyasāvako ariyānaṁ dassāvī ariyadhammassa kovido ariyadhamme suvinīto, sappurisānaṁ dassāvī sappurisadhammassa kovido sappurisadhamme suvinīto na sakkāyadiṭṭhipariyuṭṭhitena cetasā viharati na sakkāyadiṭṭhiparetena;
và vị này như thật tuệ tri sự xuất ly dục tham đã khởi lên.
uppannāya ca sakkāyadiṭṭhiyā nissaraṇaṁ yathābhūtaṁ pajānāti.
Thân kiến này của vị ấy với tùy miên được đoạn trừ.
Tassa sā sakkāyadiṭṭhi sānusayā pahīyati.
Vị này sống với tâm không bị nghi hoặc triền phược, không bị nghi hoặc chi phối,
Na vicikicchāpariyuṭṭhitena cetasā viharati na vicikicchāparetena;
và vị này như thật tuệ tri sự xuất ly nghi hoặc đã khởi lên.
uppannāya ca vicikicchāya nissaraṇaṁ yathābhūtaṁ pajānāti.
Nghi hoặc này của vị ấy với tùy miên được đoạn trừ.
Tassa sā vicikicchā sānusayā pahīyati.
Vị ấy sống với tâm không bị giới cấm thủ triền phược, không bị giới cấm thủ chi phối,
Na sīlabbataparāmāsapariyuṭṭhitena cetasā viharati na sīlabbataparāmāsaparetena;
và vị này như thật tuệ tri sự xuất ly giới cấm thủ đã khởi lên,
uppannassa ca sīlabbataparāmāsassa nissaraṇaṁ yathābhūtaṁ pajānāti.
giới cấm thủ của vị ấy với tùy miên được đoạn trừ.
Tassa so sīlabbataparāmāso sānusayo pahīyati.
Vị này sống với tâm không bị dục tham triền phược, không bị dục tham chi phối,
Na kāmarāgapariyuṭṭhitena cetasā viharati na kāmarāgaparetena;
và vị này như thật tuệ tri sự xuất ly dục tham đã khởi lên.
uppannassa ca kāmarāgassa nissaraṇaṁ yathābhūtaṁ pajānāti.
Dục tham này của vị ấy với tùy miên được đoạn trừ.
Tassa so kāmarāgo sānusayo pahīyati.
Vị này sống với tâm không bị sân triền phược, không bị sân chi phối,
Na byāpādapariyuṭṭhitena cetasā viharati na byāpādaparetena;
và vị này như thật tuệ tri sự xuất ly sân đã khởi lên.
uppannassa ca byāpādassa nissaraṇaṁ yathābhūtaṁ pajānāti.
Sân này của vị ấy với tùy miên được đoạn trừ.
Tassa so byāpādo sānusayo pahīyati.
Này Ānanda, con đường nào, lộ trình nào đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, nếu không thực hành con đường ấy, lộ trình ấy, nhưng năm hạ phần kiết sử được biết rõ, hay được thấy rõ, hay được đoạn trừ, sự tình như vậy không xảy ra.
Yo, ānanda, maggo yā paṭipadā pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ pahānāya taṁ maggaṁ taṁ paṭipadaṁ anāgamma pañcorambhāgiyāni saṁyojanāni ñassati vā dakkhati vā pajahissati vāti—netaṁ ṭhānaṁ vijjati.
Ví như, này Ānanda, đối với một cây lớn đứng thẳng có lõi cây, nếu người ấy không đẽo vỏ trong, không đẽo giác cây, nhưng vẫn có thể đẽo được lõi cây,
Seyyathāpi, ānanda, mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato tacaṁ acchetvā phegguṁ acchetvā sāracchedo bhavissatīti—
sự tình này không xảy ra.
netaṁ ṭhānaṁ vijjati;
Cũng vậy, này Ānanda, con đường nào, lộ trình nào đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, nếu không thực hành con đường ấy, lộ trình ấy, nhưng năm hạ phần kiết sử sẽ được biết rõ, hay sẽ được thấy rõ, hay sẽ được đoạn trừ, sự tình như vậy không xảy ra.
evameva kho, ānanda, yo maggo yā paṭipadā pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ pahānāya taṁ maggaṁ taṁ paṭipadaṁ anāgamma pañcorambhāgiyāni saṁyojanāni ñassati vā dakkhati vā pajahissati vāti—netaṁ ṭhānaṁ vijjati.
Và này Ānanda, con đường nào, lộ trình nào đưa đến đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, nếu thực hành con đường ấy, lộ trình ấy, thời năm hạ phần kiết sử sẽ được biết rõ, hay sẽ được thấy rõ, hay sẽ được đoạn trừ, sự tình như vậy xảy ra.
Yo ca kho, ānanda, maggo yā paṭipadā pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ pahānāya taṁ maggaṁ taṁ paṭipadaṁ āgamma pañcorambhāgiyāni saṁyojanāni ñassati vā dakkhati vā pajahissati vāti—ṭhānametaṁ vijjati.
Ví như, này Ānanda, đối với một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, nếu người ấy sau khi đẽo vỏ trong, sau khi đẽo giác cây, thời sẽ đẽo được lõi cây, sự tình này xảy ra.
Seyyathāpi, ānanda, mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato tacaṁ chetvā phegguṁ chetvā sāracchedo bhavissatīti—ṭhānametaṁ vijjati.
Cũng vậy, này Ānanda, con đường nào, lộ trình nào đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, nếu thực hành con đường ấy, đạo lộ ấy, thời năm hạ phần kiết sử sẽ được biết rõ, hay sẽ được thấy rõ, hay sẽ được đoạn diệt, sự tình như vậy xảy ra.
evameva kho, ānanda, yo maggo yā paṭipadā pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ pahānāya taṁ maggaṁ taṁ paṭipadaṁ āgamma pañcorambhāgiyāni saṁyojanāni ñassati vā dakkhati vā pajahissati vāti—ṭhānametaṁ vijjati.
Này Ānanda, ví như sông Hằng, nước đầy tràn, con quạ có thể uống được.
Seyyathāpi, ānanda, gaṅgā nadī pūrā udakassa samatittikā kākapeyyā.
Rồi một người ốm yếu đi đến và nghĩ như sau:
Atha dubbalako puriso āgaccheyya:
“Sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, với tay của ta, ta sẽ đến bờ bên kia an toàn”.
‘ahaṁ imissā gaṅgāya nadiyā tiriyaṁ bāhāya sotaṁ chetvā sotthinā pāraṁ gacchissāmī’ti;
Nhưng người ấy không thể sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, với tay của người ấy, đến được bờ bên kia an toàn.
so na sakkuṇeyya gaṅgāya nadiyā tiriyaṁ bāhāya sotaṁ chetvā sotthinā pāraṁ gantuṁ.
Cũng vậy, này Ānanda, bất cứ ai, khi được giảng pháp để đoạn trừ thân kiến, nếu tâm của vị ấy không thích thú, không hoan hỷ, không có định tĩnh, không có giải thoát,
Evameva kho, ānanda, yesaṁ kesañci sakkāyanirodhāya dhamme desiyamāne cittaṁ na pakkhandati nappasīdati na santiṭṭhati na vimuccati;
thời vị ấy cần phải được xem là giống người ốm yếu kia.
seyyathāpi so dubbalako puriso evamete daṭṭhabbā.
Này Ānanda, ví như sông Hằng, nước lớn, đầy tràn, con quạ có thể uống được.
Seyyathāpi, ānanda, gaṅgā nadī pūrā udakassa samatittikā kākapeyyā.
Rồi một người lực sĩ đi đến và nghĩ như sau:
Atha balavā puriso āgaccheyya:
“Sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, với tay của ta, ta sẽ đến bờ bên kia an toàn”.
‘ahaṁ imissā gaṅgāya nadiyā tiriyaṁ bāhāya sotaṁ chetvā sotthinā pāraṁ gacchissāmī’ti;
Người ấy có thể sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng với tay của người ấy, đến được bờ bên kia an toàn.
so sakkuṇeyya gaṅgāya nadiyā tiriyaṁ bāhāya sotaṁ chetvā sotthinā pāraṁ gantuṁ.
Cũng vậy, này Ānanda, bất cứ ai, khi được giảng pháp để được đoạn trừ thân kiến, nếu tâm của vị ấy thích thú, hoan hỷ, có định tĩnh, có giải thoát,
Evameva kho, ānanda, yesaṁ kesañci sakkāyanirodhāya dhamme desiyamāne cittaṁ pakkhandati pasīdati santiṭṭhati vimuccati;
thời vị ấy được xem là giống như người lực sĩ kia
seyyathāpi so balavā puriso evamete daṭṭhabbā.
Và này Ānanda, thế nào là con đường, thế nào là lộ trình đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử?
Katamo cānanda, maggo, katamā paṭipadā pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ pahānāya?
Ở đây, này Ānanda, Tỷ-kheo do viễn ly các sanh y (Upadhiviveka), do đoạn trừ các bất thiện pháp, do làm cho an tịnh thân thô ác hành một cách toàn diện, ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.
Idhānanda, bhikkhu upadhivivekā akusalānaṁ dhammānaṁ pahānā sabbaso kāyaduṭṭhullānaṁ paṭippassaddhiyā vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṁ savicāraṁ vivekajaṁ pītisukhaṁ paṭhamaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.
Vị này chánh quán mọi sắc pháp, thọ pháp, tưởng pháp, hành pháp, thức pháp là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều bất hạnh, như bệnh chướng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô ngã.
So yadeva tattha hoti rūpagataṁ vedanāgataṁ saññāgataṁ saṅkhāragataṁ viññāṇagataṁ te dhamme aniccato dukkhato rogato gaṇḍato sallato aghato ābādhato parato palokato suññato anattato samanupassati.
Vị này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy.
So tehi dhammehi cittaṁ paṭivāpeti.
Sau khi giải thoát tâm khỏi các pháp ấy, vị ấy tập trung tâm vào bất tử giới (Amatadhatu) và nghĩ rằng:
So tehi dhammehi cittaṁ paṭivāpetvā amatāya dhātuyā cittaṁ upasaṁharati:
“Ðây là tịch tịnh, đây là vi diệu, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả sanh y, sự ái diệt, vô tham, đoạn diệt, Niết-bàn”.
‘etaṁ santaṁ etaṁ paṇītaṁ yadidaṁ sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhākkhayo virāgo nirodho nibbānan’ti.
Nếu an trú vững chắc ở đây, vị này đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc.
So tattha ṭhito āsavānaṁ khayaṁ pāpuṇāti;
Nếu vị ấy không đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc, thời do sự tham pháp, hỷ pháp của mình, thời do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, nhập Niết-bàn ở đấy, không phải trở lui đời này nữa.
no ce āsavānaṁ khayaṁ pāpuṇāti teneva dhammarāgena tāya dhammanandiyā pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā opapātiko hoti, tattha parinibbāyī, anāvattidhammo tasmā lokā.
Này Ānanda, đây là con đường, đây là lộ trình đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử.
Ayampi kho, ānanda, maggo ayaṁ paṭipadā pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ pahānāya.
Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhứt tâm…
Puna caparaṁ, ānanda, bhikkhu vitakkavicārānaṁ vūpasamā …pe… dutiyaṁ jhānaṁ upasampajja viharati …pe…
ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba…
tatiyaṁ jhānaṁ …pe…
xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng và trú Thiền thứ tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.
catutthaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.
Vị này chánh quán mọi sắc pháp, thọ pháp, tưởng pháp, hành pháp, thức pháp là vô thường , khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều bất hạnh, như bệnh chướng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô ngã. Vị này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy. Sau khi giải thoát tâm khỏi các pháp ấy, vị ấy tập trung tâm vào bất tử giới (Amatadhatu) và nghĩ rằng: “Ðây là tịch tịnh, đây là vi diệu, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả sanh y, sự ái diệt, vô tham, đoạn diệt, Niết-bàn”. Nếu an trú vững chắc ở đây, vị này đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc. Nếu vị ấy không đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc, thời do sự tham pháp, hỷ pháp của mình, thời do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, nhập Niết-bàn ở đấy, không phải trở lui đời này nữa.
So yadeva tattha hoti rūpagataṁ vedanāgataṁ saññāgataṁ saṅkhāragataṁ viññāṇagataṁ …pe… anāvattidhammo tasmā lokā.
Này Ānanda, đây là con đường, đây là lộ trình đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử.
Ayampi kho, ānanda, maggo ayaṁ paṭipadā pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ pahānāya.
Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không tác ý đối với dị tưởng, vị Tỷ-kheo nghĩ rằng: “Hư không là vô biên”, chứng và trú Hư không vô biên xứ.
Puna caparaṁ, ānanda, bhikkhu sabbaso rūpasaññānaṁ samatikkamā paṭighasaññānaṁ atthaṅgamā nānattasaññānaṁ amanasikārā ‘ananto ākāso’ti ākāsānañcāyatanaṁ upasampajja viharati.
Vị này chánh quán mọi thọ pháp, tưởng pháp, hành pháp, thức pháp là vô thường… (như trên)… không phải trở lui đời này nữa.
So yadeva tattha hoti vedanāgataṁ saññāgataṁ saṅkhāragataṁ viññāṇagataṁ …pe…anāvattidhammo tasmā lokā.
Này Ānanda, đây là con đường, đây là lộ trình đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử.
Ayampi kho, ānanda, maggo ayaṁ paṭipadā pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ pahānāya.
Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo vượt lên mọi Hư không vô biên xứ, nghĩ rằng: “Thức là vô biên”, chứng và trú Thức vô biên xứ… (như trên)…
Puna caparaṁ, ānanda, bhikkhu sabbaso ākāsānañcāyatanaṁ samatikkamma ‘anantaṁ viññāṇan’ti viññāṇañcāyatanaṁ upasampajja viharati.
Vị này chánh quán mọi thọ pháp, tưởng pháp, hành pháp, thức pháp là vô thường… (như trên)… không phải trở lui đời này nữa.
So yadeva tattha hoti vedanāgataṁ saññāgataṁ saṅkhāragataṁ viññāṇagataṁ …pe… anāvattidhammo tasmā lokā.
Này Ānanda, đây là con đường, đây là lộ trình đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử.
Ayampi kho, ānanda, maggo ayaṁ paṭipadā pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ pahānāya.
Lại nữa, này Ānanda, Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: “Không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ.
Puna caparaṁ, ānanda, bhikkhu sabbaso viññāṇañcāyatanaṁ samatikkamma ‘natthi kiñcī’ti ākiñcaññāyatanaṁ upasampajja viharati.
Vị này chánh quán mọi sắc pháp, thọ pháp, tưởng pháp, hành pháp, thức pháp là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như điều bất hạnh, như bệnh chướng, như kẻ địch, như phá hoại, là không, là vô ngã. Vị này giải thoát tâm khỏi các pháp ấy. Sau khi giải thoát tâm khỏi các pháp ấy, vị ấy tập trung vào bất tử giới và nghĩ rằng: “Ðây là tịch tịnh, đây là vi diệu, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả sanh y, sự ái diệt, vô tham, đoạn diệt, Niết-bàn”. Nếu an trú vững chắc ở đây, vị này đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc. Nếu vị ấy không đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc, thời do sự tham pháp, hỷ pháp của mình, do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, nhập Niết-bàn ở đấy, không phải trở lui đời này nữa.
So yadeva tattha hoti vedanāgataṁ saññāgataṁ saṅkhāragataṁ viññāṇagataṁ …pe… anāvattidhammo tasmā lokā.
Này Ānanda, đây là con đường, đây là lộ trình đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử.”
Ayampi kho, ānanda, maggo ayaṁ paṭipadā pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ pahānāyā”ti.
“Bạch Thế Tôn, nếu đây là con đường, đây là lộ trình đưa đến sự đoạn trừ năm hạ phần kiết sử thời do hành trì như thế nào mà một số vị Tỷ-kheo chứng tâm giải thoát, một số chứng tuệ giải thoát?”
“Eso ce, bhante, maggo esā paṭipadā pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ pahānāya, atha kiñcarahi idhekacce bhikkhū cetovimuttino ekacce bhikkhū paññāvimuttino”ti?
“Ở đây, này Ānanda, Ta nói rằng do sự sai khác về căn tánh.”
“Ettha kho panesāhaṁ, ānanda, indriyavemattataṁ vadāmī”ti.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.
Tôn giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Attamano āyasmā ānando bhagavato bhāsitaṁ abhinandīti.
Mahāmālukyasuttaṁ niṭṭhitaṁ catutthaṁ.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt