Sáng/Tối

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 57

Trung Bộ 57
Majjhima Nikāya 57

Kinh Hạnh Con Chó
Kukkuravatikasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—

Một thời Thế Tôn ở giữa dân chúng Koliya. Haliddavasana là tên một thị trấn của dân chúng Koliya.
ekaṁ samayaṁ bhagavā koliyesu viharati haliddavasanaṁ nāma koliyānaṁ nigamo.

Rồi Puṇṇa người Koliya, hành trì hạnh con bò, và lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến Puṇṇa người Koliya, hành trì hạnh con bò, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Còn lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, nói lời hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên lời hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên, ngồi chõ hỏ như con chó.
Atha kho puṇṇo ca koliyaputto govatiko acelo ca seniyo kukkuravatiko yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā puṇṇo koliyaputto govatiko bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Acelo pana seniyo kukkuravatiko bhagavatā saddhiṁ sammodi. Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā kukkurova palikujjitvā ekamantaṁ nisīdi.

Sau khi ngồi một bên, Puṇṇa người Koliya, hành trì hạnh con bò, bạch Thế Tôn:
Ekamantaṁ nisinno kho puṇṇo koliyaputto govatiko bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng xuống đất,
“ayaṁ, bhante, acelo seniyo kukkuravatiko dukkarakārako chamānikkhittaṁ bhojanaṁ bhuñjati.

chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài,
Tassa taṁ kukkuravataṁ dīgharattaṁ samattaṁ samādinnaṁ.

vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào?”
Tassa kā gati, ko abhisamparāyo”ti?

“Thôi vừa rồi Puṇṇa, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa.”
“Alaṁ, puṇṇa, tiṭṭhatetaṁ; mā maṁ etaṁ pucchī”ti.

Lần thứ hai… (như trên)…
Dutiyampi kho puṇṇo koliyaputto govatiko …pe…

Lần thứ ba Puṇṇa người Koliya, hành trì hạnh con bò, bạch Thế Tôn:
tatiyampi kho puṇṇo koliyaputto govatiko bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng dưới đất,
“ayaṁ, bhante, acelo seniyo kukkuravatiko dukkarakārako chamānikkhittaṁ bhojanaṁ bhuñjati.

chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài,
Tassa taṁ kukkuravataṁ dīgharattaṁ samattaṁ samādinnaṁ.

vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào?”
Tassa kā gati, ko abhisamparāyo”ti?

“Này Puṇṇa, thật sự Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói:
“Addhā kho te ahaṁ, puṇṇa, na labhāmi.

“Thôi vừa rồi Puṇṇa, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa”.
Alaṁ, puṇṇa, tiṭṭhatetaṁ; mā maṁ etaṁ pucchīti;

Tuy vậy, Ta sẽ trả lời cho Ông.
api ca tyāhaṁ byākarissāmi.

Ở đây, này Puṇṇa, người nào hành trì hạnh con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì giới con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì tâm con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì uy nghi con chó một cách hoàn toàn viên mãn,
Idha, puṇṇa, ekacco kukkuravataṁ bhāveti paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ, kukkurasīlaṁ bhāveti paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ, kukkuracittaṁ bhāveti paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ, kukkurākappaṁ bhāveti paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ.

sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh thân hữu cùng với các loài chó.
So kukkuravataṁ bhāvetvā paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ, kukkurasīlaṁ bhāvetvā paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ, kukkuracittaṁ bhāvetvā paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ, kukkurākappaṁ bhāvetvā paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ kāyassa bhedā paraṁ maraṇā kukkurānaṁ sahabyataṁ upapajjati.

Nếu Ông ấy có tà kiến như sau: “Do giới này, hạnh này, khổ hạnh này, hay phạm hạnh này, ta sẽ sanh thành chư Thiên này, hay chư Thiên khác”,
Sace kho panassa evaṁdiṭṭhi hoti: ‘imināhaṁ sīlena vā vatena vā tapena vā brahmacariyena vā devo vā bhavissāmi devaññataro vā’ti, sāssa hoti micchādiṭṭhi.

thời này Puṇṇa, đối với kẻ có tà kiến, Ta nói có một trong hai sanh thú như sau: địa ngục hay bàng sanh.
Micchādiṭṭhissa kho ahaṁ, puṇṇa, dvinnaṁ gatīnaṁ aññataraṁ gatiṁ vadāmi—nirayaṁ vā tiracchānayoniṁ vā.

Như vậy, này Puṇṇa, nếu hạnh con chó được thành tựu, thời được sanh trong loài chó, nếu không được thành tựu, thời được sanh trong địa ngục.”
Iti kho, puṇṇa, sampajjamānaṁ kukkuravataṁ kukkurānaṁ sahabyataṁ upaneti, vipajjamānaṁ nirayan”ti.

Khi được nói vậy, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, khóc than chảy nước mắt.
Evaṁ vutte, acelo seniyo kukkuravatiko parodi, assūni pavattesi.

Rồi Thế Tôn nói với Puṇṇa người Koliya, hành trì hạnh con bò:
Atha kho bhagavā puṇṇaṁ koliyaputtaṁ govatikaṁ etadavoca:

“Này Puṇṇa, Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của ông và đã nói:
“etaṁ kho te ahaṁ, puṇṇa, nālatthaṁ.

“Thôi vừa rồi Puṇṇa, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa”.
Alaṁ, puṇṇa, tiṭṭhatetaṁ; mā maṁ etaṁ pucchī”ti.

Bạch Thế Tôn, con khóc như vậy không phải vì lời Thế Tôn nói về con.
“Nāhaṁ, bhante, etaṁ rodāmi yaṁ maṁ bhagavā evamāha;

Nhưng vì bạch Thế Tôn, con đã chấp nhận và hành trì hạnh con chó này trong một thời gian dài.
api ca me idaṁ, bhante, kukkuravataṁ dīgharattaṁ samattaṁ samādinnaṁ.

Bạch Thế Tôn, Puṇṇa người Koliya, hành trì hạnh con bò này,
Ayaṁ, bhante, puṇṇo koliyaputto govatiko.

đã chấp nhận và hành trì hạnh con bò này, trong một thời gian dài,
Tassa taṁ govataṁ dīgharattaṁ samattaṁ samādinnaṁ.

vậy sanh thú của ông ấy thế nào, vận mạng của ông ấy thế nào?”
Tassa kā gati, ko abhisamparāyo”ti?

“Thôi vừa rồi Seniya, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa.”
“Alaṁ, seniya, tiṭṭhatetaṁ; mā maṁ etaṁ pucchī”ti.

Lần thứ hai… (như trên)…
Dutiyampi kho acelo seniyo …pe…

Lần thứ ba, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, bạch Thế Tôn:
tatiyampi kho acelo seniyo kukkuravatiko bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, Puṇṇa người Koliya này đã chấp nhận và hành trì hạnh con bò này trong một thời gian dài,
“ayaṁ, bhante, puṇṇo koliyaputto govatiko. Tassa taṁ govataṁ dīgharattaṁ samattaṁ samādinnaṁ.

vậy sanh thú của ông ấy thế nào, vận mạng của ông ấy thế nào?”
Tassa kā gati, ko abhisamparāyo”ti?

“Này Seniya, thật sự Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói:
“Addhā kho te ahaṁ, seniya, na labhāmi.

‘Thôi vừa rồi Seniya, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa.’
Alaṁ, seniya, tiṭṭhatetaṁ; mā maṁ etaṁ pucchīti;

Tuy vậy ta sẽ trả lời cho Ông.
api ca tyāhaṁ byākarissāmi.

Ở đây, này Seniya, người nào hạnh trì hạnh con bò một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì giới con bò một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì tâm con bò một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì uy nghi con bò một cách hoàn toàn viên mãn,
Idha, seniya, ekacco govataṁ bhāveti paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ, gosīlaṁ bhāveti paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ, gocittaṁ bhāveti paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ, gavākappaṁ bhāveti paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ.

sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh thân hữu cùng với các loài bò.
So govataṁ bhāvetvā paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ, gosīlaṁ bhāvetvā paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ, gocittaṁ bhāvetvā paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ, gavākappaṁ bhāvetvā paripuṇṇaṁ abbokiṇṇaṁ kāyassa bhedā paraṁ maraṇā gunnaṁ sahabyataṁ upapajjati.

Nếu Ông ấy có tà kiến như sau: “Do giới này, hạnh này, khổ hạnh này, hay phạm hạnh này, ta sẽ sanh thành chư Thiên này hay chư Thiên khác”,
Sace kho panassa evaṁdiṭṭhi hoti: ‘imināhaṁ sīlena vā vatena vā tapena vā brahmacariyena vā devo vā bhavissāmi devaññataro vā’ti, sāssa hoti micchādiṭṭhi.

thời này Seniya, đối với kẻ có tà kiến, Ta nói có một trong hai sanh thú như sau: địa ngục hay bàng sanh.
Micchādiṭṭhissa kho ahaṁ, seniya, dvinnaṁ gatīnaṁ aññataraṁ gatiṁ vadāmi—nirayaṁ vā tiracchānayoniṁ vā.

Như vậy, này Seniya, nếu hạnh con bò được thành tựu, thời được sanh trong loài bò, nếu không được thành tựu, thời được sanh trong địa ngục.”
Iti kho, seniya, sampajjamānaṁ govataṁ gunnaṁ sahabyataṁ upaneti, vipajjamānaṁ nirayan”ti.

Khi được nói vậy, Puṇṇa người Koliya, hành trì hạnh con bò, khóc than, chảy nước mắt.
Evaṁ vutte, puṇṇo koliyaputto govatiko parodi, assūni pavattesi.

Rồi Thế Tôn nói với lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó:
Atha kho bhagavā acelaṁ seniyaṁ kukkuravatikaṁ etadavoca:

“Này Seniya, Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói:
“etaṁ kho te ahaṁ, seniya, nālatthaṁ.

“Thôi vừa rồi Seniya, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa”.
Alaṁ, seniya, tiṭṭhatetaṁ; mā maṁ etaṁ pucchī”ti.

Bạch Thế Tôn, con khóc như vậy không phải vì lời Thế Tôn nói về con.
“Nāhaṁ, bhante, etaṁ rodāmi yaṁ maṁ bhagavā evamāha;

Nhưng vì, bạch Thế Tôn, con đã chấp nhận và hành trì hạnh con bò này trong một thời gian dài.
api ca me idaṁ, bhante, govataṁ dīgharattaṁ samattaṁ samādinnaṁ.

Bạch Thế Tôn, con có lòng tin tưởng đối với Thế Tôn:
Evaṁ pasanno ahaṁ, bhante, bhagavati;

Thế Tôn có thể thuyết pháp cho con để con có thể từ bỏ hạnh con bò này và để lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, có thể bỏ hạnh con chó này.”
pahoti bhagavā tathā dhammaṁ desetuṁ yathā ahaṁ cevimaṁ govataṁ pajaheyyaṁ, ayañceva acelo seniyo kukkuravatiko taṁ kukkuravataṁ pajaheyyā”ti.

“Này Puṇṇa, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.”
“Tena hi, puṇṇa, suṇāhi, sādhukaṁ manasi karohi, bhāsissāmī”ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” Puṇṇa người Koliya vâng đáp Thế Tôn.
“Evaṁ, bhante”ti kho puṇṇo koliyaputto govatiko bhagavato paccassosi.

Thế Tôn nói như sau:
Bhagavā etadavoca:

“Này Puṇṇa có bốn loại nghiệp này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ và tuyên thuyết.
“Cattārimāni, puṇṇa, kammāni mayā sayaṁ abhiññā sacchikatvā paveditāni.

Thế nào là bốn?
Katamāni cattāri?

Này Puṇṇa, có nghiệp đen đưa đến quả báo đen,
Atthi, puṇṇa, kammaṁ kaṇhaṁ kaṇhavipākaṁ;

này Puṇṇa, có nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng,
atthi, puṇṇa, kammaṁ sukkaṁ sukkavipākaṁ;

này Puṇṇa, có nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng,
atthi, puṇṇa, kammaṁ kaṇhasukkaṁ kaṇhasukkavipākaṁ;

này Puṇṇa, có nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp.
atthi, puṇṇa, kammaṁ akaṇhaṁ asukkaṁ akaṇhaasukkavipākaṁ, kammakkhayāya saṁvattati.

Và này Puṇṇa, thế nào là nghiệp đen đưa đến quả báo đen?
Katamañca, puṇṇa, kammaṁ kaṇhaṁ kaṇhavipākaṁ?

Ở đây, này Puṇṇa có người tạo ra thân hành có tổn hại, tạo ra khẩu hành có tổn hại, tạo ra ý hành có tổn hại.
Idha, puṇṇa, ekacco sabyābajjhaṁ kāyasaṅkhāraṁ abhisaṅkharoti, sabyābajjhaṁ vacīsaṅkhāraṁ abhisaṅkharoti, sabyābajjhaṁ manosaṅkhāraṁ abhisaṅkharoti.

Sau khi tạo ra thân hành có tổn hại, khẩu hành có tổn hại, ý hành có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới có tổn hại.
So sabyābajjhaṁ kāyasaṅkhāraṁ abhisaṅkharitvā, sabyābajjhaṁ vacīsaṅkhāraṁ abhisaṅkharitvā, sabyābajjhaṁ manosaṅkhāraṁ abhisaṅkharitvā, sabyābajjhaṁ lokaṁ upapajjati.

Vì phải sanh vào thế giới có tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc có tổn hại.
Tamenaṁ sabyābajjhaṁ lokaṁ upapannaṁ samānaṁ sabyābajjhā phassā phusanti.

Do cảm xúc những cảm xúc có tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ có tổn hại, thuần nhất khổ thọ, như các chúng sanh trong địa ngục.
So sabyābajjhehi phassehi phuṭṭho samāno sabyābajjhaṁ vedanaṁ vedeti ekantadukkhaṁ, seyyathāpi sattā nerayikā.

Như vậy, này Puṇṇa, là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh,
Iti kho, puṇṇa, bhūtā bhūtassa upapatti hoti;

chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình,
yaṁ karoti tena upapajjati,

và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích mình.
upapannamenaṁ phassā phusanti.

Do vậy, này Puṇṇa, Ta nói: “Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)”.
Evampāhaṁ, puṇṇa, ‘kammadāyādā sattā’ti vadāmi.

Như vậy, này Puṇṇa, được gọi là nghiệp đen đưa đến quả báo đen.
Idaṁ vuccati, puṇṇa, kammaṁ kaṇhaṁ kaṇhavipākaṁ.

Và này Puṇṇa, thế nào là nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng?
Katamañca, puṇṇa, kammaṁ sukkaṁ sukkavipākaṁ?

Ở đây, này Puṇṇa, có người làm thân hành không không có tổn hại, làm khẩu hành không có tổn hại, làm ý hành không không có tổn hại.
Idha, puṇṇa, ekacco abyābajjhaṁ kāyasaṅkhāraṁ abhisaṅkharoti, abyābajjhaṁ vacīsaṅkhāraṁ abhisaṅkharoti, abyābajjhaṁ manosaṅkhāraṁ abhisaṅkharoti.

Sau khi làm thân hành không không có tổn hại, khẩu hành không không có tổn hại, ý hành không không có tổn hại, vị này được sanh vào thế giới không không có tổn hại.
So abyābajjhaṁ kāyasaṅkhāraṁ abhisaṅkharitvā, abyābajjhaṁ vacīsaṅkhāraṁ abhisaṅkharitvā, abyābajjhaṁ manosaṅkhāraṁ abhisaṅkharitvā abyābajjhaṁ lokaṁ upapajjati.

Vì phải sanh vào thế giới không không có tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc không không có tổn hại.
Tamenaṁ abyābajjhaṁ lokaṁ upapannaṁ samānaṁ abyābajjhā phassā phusanti.

Do cảm xúc những cảm xúc không không có tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ không không có tổn hại, thuần nhất lạc thọ, như chư Thiên Subhakinha (Biến Tịnh thiên).
So abyābajjhehi phassehi phuṭṭho samāno abyābajjhaṁ vedanaṁ vedeti ekantasukhaṁ, seyyathāpi devā subhakiṇhā.

Như vậy này Puṇṇa là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh,
Iti kho, puṇṇa, bhūtā bhūtassa upapatti hoti;

chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình;
yaṁ karoti tena upapajjati,

và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích chúng sanh ấy.
upapannamenaṁ phassā phusanti.

Do vậy, này Puṇṇa, Ta nói: “Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)”.
Evampāhaṁ, puṇṇa, ‘kammadāyādā sattā’ti vadāmi.

Như vậy, này Puṇṇa, được gọi là nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng.
Idaṁ vuccati, puṇṇa, kammaṁ sukkaṁ sukkavipākaṁ.

Và này Puṇṇa, thế nào là nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng?
Katamañca, puṇṇa, kammaṁ kaṇhasukkaṁ kaṇhasukkavipākaṁ?

Ở đây, này Puṇṇa, có người làm các thân hành có tổn hại và không tổn hại, các khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, các ý hành có tổn hại và không tổn hại.
Idha, puṇṇa, ekacco sabyābajjhampi abyābajjhampi kāyasaṅkhāraṁ abhisaṅkharoti, sabyābajjhampi abyābajjhampi vacīsaṅkhāraṁ abhisaṅkharoti, sabyābajjhampi abyābajjhampi manosaṅkhāraṁ abhisaṅkharoti.

Sau khi làm các thân hành có tổn hại và không tổn hại, khẩu hành có tổn hại và không tổn hại, ý hành có tổn hại và không tổn hại, vị này được sanh vào thế giới có tổn hại và không tổn hại.
So sabyābajjhampi abyābajjhampi kāyasaṅkhāraṁ abhisaṅkharitvā, sabyābajjhampi abyābajjhampi vacīsaṅkhāraṁ abhisaṅkharitvā, sabyābajjhampi abyābajjhampi manosaṅkhāraṁ abhisaṅkharitvā sabyābajjhampi abyābajjhampi lokaṁ upapajjati.

Vì phải sanh vào thế giới có tổn hại và không tổn hại, vị này cảm xúc những cảm xúc có tổn hại và không tổn hại.
Tamenaṁ sabyābajjhampi abyābajjhampi lokaṁ upapannaṁ samānaṁ sabyābajjhāpi abyābajjhāpi phassā phusanti.

Do cảm xúc những cảm xúc có tổn hại và không tổn hại, vị này cảm thọ những cảm thọ có tổn hại và không tổn hại, có lạc thọ khổ thọ xen lẫn, như một số loài Người, một số chư Thiên và một số chúng sanh trong đọa xứ.
So sabyābajjhehipi abyābajjhehipi phassehi phuṭṭho samāno sabyābajjhampi abyābajjhampi vedanaṁ vedeti vokiṇṇasukhadukkhaṁ, seyyathāpi manussā ekacce ca devā ekacce ca vinipātikā.

Như vậy, này Puṇṇa là sự sanh khởi của một chúng sanh tùy thuộc ở chúng sanh,
Iti kho, puṇṇa, bhūtā bhūtassa upapatti hoti;

chúng sanh ấy sanh khởi tùy thuộc hành động của mình;
yaṁ karoti tena upapajjati.

và khi chúng sanh ấy đã sanh, thời các cảm xúc kích thích chúng sanh ấy.
Upapannamenaṁ phassā phusanti.

Do vậy, này Puṇṇa, Ta nói: “Các chúng sanh là thừa tự hạnh nghiệp (của mình)”.
Evampāhaṁ, puṇṇa, ‘kammadāyādā sattā’ti vadāmi.

Như vậy này Puṇṇa, được gọi là nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng.
Idaṁ vuccati, puṇṇa, kammaṁ kaṇhasukkaṁ kaṇhasukkavipākaṁ.

Và này Puṇṇa, thế nào là nghiệp không đen trắng, đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp?
Katamañca, puṇṇa, kammaṁ akaṇhaṁ asukkaṁ akaṇhaasukkavipākaṁ, kammakkhayāya saṁvattati?

Ở đây, này Puṇṇa chỗ nào có ý chí (Cetana: Tư tâm sở) đoạn trừ nghiệp đen đưa đến quả báo đen, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, chỗ nào có ý chí đoạn trừ nghiệp đen trắng đưa đến quả báo đen trắng.
Tatra, puṇṇa, yamidaṁ kammaṁ kaṇhaṁ kaṇhavipākaṁ tassa pahānāya yā cetanā, yamidaṁ kammaṁ sukkaṁ sukkavipākaṁ tassa pahānāya yā cetanā, yamidaṁ kammaṁ kaṇhasukkaṁ kaṇhasukkavipākaṁ tassa pahānāya yā cetanā—

Ở đây, này Puṇṇa, chỗ nào có ý chí như vậy, này Puṇṇa, được gọi là nghiệp không đen trắng đưa đến quả báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp.
idaṁ vuccati, puṇṇa, kammaṁ akaṇhaṁ asukkaṁ akaṇhaasukkavipākaṁ, kammakkhayāya saṁvattatīti.

Này Puṇṇa, bốn loại nghiệp này, Ta đã tự chứng tri, chứng ngộ và tuyên thuyết.”
Imāni kho, puṇṇa, cattāri kammāni mayā sayaṁ abhiññā sacchikatvā paveditānī”ti.

Khi được nói vậy, Puṇṇa người Koliya, hành trì hạnh con bò bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, puṇṇo koliyaputto govatiko bhagavantaṁ etadavoca:

“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!
“abhikkantaṁ, bhante, abhikkantaṁ, bhante.

Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng.
Seyyathāpi, bhante …pe…

Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.”
upāsakaṁ maṁ bhagavā dhāretu ajjatagge pāṇupetaṁ saraṇaṁ gatan”ti.

Còn lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, bạch Thế Tôn:
Acelo pana seniyo kukkuravatiko bhagavantaṁ etadavoca:

“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn !
“abhikkantaṁ, bhante, abhikkantaṁ, bhante.

Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người đi lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích.
Seyyathāpi, bhante …pe… pakāsito.

Con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng.
Esāhaṁ, bhante, bhagavantaṁ saraṇaṁ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca.

Mong Thế Tôn cho con được xuất gia với Thế Tôn, mong cho con thọ đại giới.”
Labheyyāhaṁ, bhante, bhagavato santike pabbajjaṁ, labheyyaṁ upasampadan”ti.

“Này Seniya, ai trước kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt trú, chúng Tăng nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo.
“Yo kho, seniya, aññatitthiyapubbo imasmiṁ dhammavinaye ākaṅkhati pabbajjaṁ, ākaṅkhati upasampadaṁ so cattāro māse parivasati. Catunnaṁ māsānaṁ accayena āraddhacittā bhikkhū pabbājenti, upasampādenti bhikkhubhāvāya.

Nhưng Ta nhận thấy ở đây là tánh con người sai biệt nhau.”
Api ca mettha puggalavemattatā viditā”ti.

“Bạch Thế Tôn, nếu những người xưa kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong pháp và luật này, phải sống bốn tháng biệt trú, sau khi sống bốn tháng biệt trú, chúng Tăng nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới, để thành vị Tỷ-kheo, thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm. Sau khi sống biệt trú bốn năm, nếu chư Tỷ-kheo đồng ý, mong chư Tỷ-kheo hãy xuất gia cho con, thọ đại giới cho con để thành vị Tỷ-kheo.”
“Sace, bhante, aññatitthiyapubbā imasmiṁ dhammavinaye ākaṅkhantā pabbajjaṁ ākaṅkhantā upasampadaṁ te cattāro māse parivasanti catunnaṁ māsānaṁ accayena āraddhacittā bhikkhū pabbājenti upasampādenti bhikkhubhāvāya, ahaṁ cattāri vassāni parivasissāmi catunnaṁ vassānaṁ accayena āraddhacittā bhikkhū pabbājentu, upasampādentu bhikkhubhāvāyā”ti.

Và lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, được xuất gia với Thế Tôn, được thọ đại giới. Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Seniya sống một mình an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Alattha kho acelo seniyo kukkuravatiko bhagavato santike pabbajjaṁ, alattha upasampadaṁ.

Và không bao lâu vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Ðó là vô thượng phạm hạnh ngay trong hiện tại, tự mình chứng tri, chứng ngộ, chứng đạt và an trú.
Acirūpasampanno kho panāyasmā seniyo eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto nacirasseva—yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṁ pabbajanti, Tadanuttaraṁ—brahmacariyapariyosānaṁ diṭṭheva dhamme sayaṁ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi.

Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời này sẽ không có đời sống khác nữa”.
“Khīṇā jāti, vusitaṁ brahmacariyaṁ, kataṁ karaṇīyaṁ, nāparaṁ itthattāyā”ti abbhaññāsi.

Và Tôn giả Seniya trở thành một vị A-la-hán nữa.
Aññataro kho panāyasmā seniyo arahataṁ ahosīti.

Kukkuravatikasuttaṁ niṭṭhitaṁ sattamaṁ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt