Trung Bộ 22
Majjhima Nikāya 22
Kinh Ví Dụ Con Rắn
Alagaddūpamasutta
Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời Thế Tôn ở Sāvatthī (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).
ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo tên là Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau:
Tena kho pana samayena ariṭṭhassa nāma bhikkhuno gaddhabādhipubbassa evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ hoti:
“Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”.
“tathāhaṁ bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṁ antarāyāyā”ti.
Một số đông Tỷ-kheo nghe như sau:
Assosuṁ kho sambahulā bhikkhū:
“Tỷ-kheo tên Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau:
“ariṭṭhassa kira nāma bhikkhuno gaddhabādhipubbassa evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ:
“Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”.
‘tathāhaṁ bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṁ antarāyāyā’”ti.
Rồi những Tỷ-kheo ấy đi đến chỗ Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khi đến xong, liền nói với Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng như sau:
Atha kho te bhikkhū yena ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā ariṭṭhaṁ bhikkhuṁ gaddhabādhipubbaṁ etadavocuṁ:
“Này Hiền giả Ariṭṭha, có đúng sự thật rằng, Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau:
“saccaṁ kira te, āvuso ariṭṭha, evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ:
“Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”.
‘tathāhaṁ bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṁ antarāyāyā’”ti.
“Thật sự là vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì.”
“Evaṁ byā kho ahaṁ, āvuso, bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṁ antarāyāyā”ti.
Rồi những Tỷ-kheo ấy muốn Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận:
Atha kho tepi bhikkhū ariṭṭhaṁ bhikkhuṁ gaddhabādhipubbaṁ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetukāmā samanuyuñjanti samanugāhanti samanubhāsanti:
“Hiền giả Ariṭṭha, chớ nói như vậy, chớ xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy.
“mā hevaṁ, āvuso ariṭṭha, avaca, mā bhagavantaṁ abbhācikkhi; na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṁ, na hi bhagavā evaṁ vadeyya.
Hiền giả Ariṭṭha, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng tự đủ bị chướng ngại.
Anekapariyāyenāvuso ariṭṭha, antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā bhagavatā, alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
Thế Tôn đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
Appassādā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như khúc xương …
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā bhagavatā …
Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như một miếng thịt …
maṁsapesūpamā kāmā vuttā bhagavatā …
Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như bó đuốc cỏ khô …
tiṇukkūpamā kāmā vuttā bhagavatā …
Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như hố than hừng …
aṅgārakāsūpamā kāmā vuttā bhagavatā …
Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như cơn mộng …
supinakūpamā kāmā vuttā bhagavatā …
Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như vật dụng cho mượn …
yācitakūpamā kāmā vuttā bhagavatā …
Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như trái cây …
rukkhaphalūpamā kāmā vuttā bhagavatā …
Thế Tôn đã thuyết các dục vọng được ví như lò thịt …
asisūnūpamā kāmā vuttā bhagavatā …
Thế Tôn đã thuyết các dục vọng được ví như gậy nhọn …
sattisūlūpamā kāmā vuttā bhagavatā …
Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít khổ nhiều, não nhiều và do vậy, nguy hiểm càng nhiều hơn.”
sappasirūpamā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo”ti.
Tỷ-kheo Ariṭṭha xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, dầu được các Tỷ-kheo ấy cật vấn, chất vấn thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy:
Evampi kho ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tehi bhikkhūhi samanuyuñjiyamāno samanugāhiyamāno samanubhāsiyamāno tadeva pāpakaṁ diṭṭhigataṁ thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati:
Thật sự là vậy, theo như tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì.”
“evaṁ byā kho ahaṁ, āvuso, bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṁ antarāyāyā”ti.
Vì các Tỷ-kheo không thể làm cho Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, nên họ đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, những Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Yato kho te bhikkhū nāsakkhiṁsu ariṭṭhaṁ bhikkhuṁ gaddhabādhipubbaṁ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetuṁ, atha kho te bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Ekamantaṁ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṁ etadavocuṁ:
Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau:
“ariṭṭhassa nāma, bhante, bhikkhuno gaddhabādhipubbassa evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ:
“Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”.
‘tathāhaṁ bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṁ antarāyāyā’ti.
Bạch Thế Tôn, chúng con nghe:
Assumha kho mayaṁ, bhante:
“Tỷ-kheo tên Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khởi lên ác tà kiến như sau:
‘ariṭṭhassa kira nāma bhikkhuno gaddhabādhipubbassa evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ—
“Theo như ta hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”.
tathāhaṁ bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṁ antarāyāyā’ti.
Bạch Thế Tôn, rồi chúng con đi đến chỗ Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, khi đến xong, liền nói với Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng:
Atha kho mayaṁ, bhante, yena ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tenupasaṅkamimha; upasaṅkamitvā ariṭṭhaṁ bhikkhuṁ gaddhabādhipubbaṁ etadavocumha:
‘Này Hiền giả Ariṭṭha, có đúng sự thật chăng? Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau:
‘saccaṁ kira te, āvuso ariṭṭha, evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ—
“Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”.
tathāhaṁ bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṁ antarāyāyā’ti?
Bạch Thế Tôn, khi nghe nói vậy, Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, nói với chúng con như sau:
Evaṁ vutte, bhante, ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo amhe etadavoca:
Thật sự là vậy. Chư Hiền, theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”.
‘evaṁ byā kho ahaṁ, āvuso, bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṁ antarāyāyā’ti.
Bạch Thế Tôn, chúng con muốn khiến Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận:
Atha kho mayaṁ, bhante, ariṭṭhaṁ bhikkhuṁ gaddhabādhipubbaṁ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetukāmā samanuyuñjimha samanugāhimha samanubhāsimha:
Hiền giả Ariṭṭha, chớ nói như vậy! Chớ xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy.
‘mā hevaṁ, āvuso ariṭṭha, avaca, mā bhagavantaṁ abbhācikkhi; na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṁ, na hi bhagavā evaṁ vadeyya.
Hiền giả Ariṭṭha, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng, tự đủ bị chướng ngại.
Anekapariyāyenāvuso ariṭṭha, antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā bhagavatā, alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
Thế Tôn đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn. Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như khúc xương… Thế Tôn đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn”.
Appassādā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo. Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā bhagavatā …pe… sappasirūpamā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo’ti.
Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, dầu được chúng con cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy:
Evampi kho, bhante, ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo amhehi samanuyuñjiyamāno samanugāhiyamāno samanubhāsiyamāno tadeva pāpakaṁ diṭṭhigataṁ thāmasā parāmāsā abhinivissa voharati:
“Thật sự là vậy, theo tôi hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng… không có chướng ngại gì”.
‘evaṁ byā kho ahaṁ, āvuso, bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṁ antarāyāyā’ti.
Bạch Thế Tôn, vì chúng con không thể làm cho Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, từ bỏ ác tà kiến ấy, nên chúng con đến hỏi Thế Tôn ý nghĩa này.
Yato kho mayaṁ, bhante, nāsakkhimha ariṭṭhaṁ bhikkhuṁ gaddhabādhipubbaṁ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetuṁ, atha mayaṁ etamatthaṁ bhagavato ārocemā”ti.
Rồi Thế Tôn cho gọi một Tỷ-kheo khác:
Atha kho bhagavā aññataraṁ bhikkhuṁ āmantesi:
Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta gọi Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng rằng: “Hiền giả Ariṭṭha, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả”.
“ehi tvaṁ, bhikkhu, mama vacanena ariṭṭhaṁ bhikkhuṁ gaddhabādhipubbaṁ āmantehi: ‘satthā taṁ, āvuso ariṭṭha, āmantetī’”ti.
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn, đến chỗ Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, sau khi đến, liền nói với Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng:
“Evaṁ, bhante”ti kho so bhikkhu bhagavato paṭissutvā, yena ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ariṭṭhaṁ bhikkhuṁ gaddhabādhipubbaṁ etadavoca:
“Hiền giả Ariṭṭha, bậc Ðạo sư gọi Hiền giả.”
“satthā taṁ, āvuso ariṭṭha, āmantetī”ti.
“Thưa vâng, Hiền giả”, Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, đáp lời Tỷ-kheo ấy, đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
“Evamāvuso”ti kho ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tassa bhikkhuno paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinnaṁ kho ariṭṭhaṁ bhikkhuṁ gaddhabādhipubbaṁ bhagavā etadavoca:
“Thế Tôn nói với Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, đang ngồi xuống một bên:
“saccaṁ kira te, ariṭṭha, evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ:
Này Ariṭṭha, có thật chăng, Ông khởi lên ác tà kiến như sau: “Theo như tôi hiểu … thật sự không có chướng ngại gì”?
‘tathāhaṁ bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṁ antarāyāyā’”ti?
“Thật sự là vậy, bạch Thế Tôn. Theo như con hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, khi thọ dụng những pháp được Thế Tôn gọi là chướng ngại pháp, thật sự không có chướng ngại gì”
“Evaṁ byā kho ahaṁ, bhante, bhagavatā dhammaṁ desitaṁ ājānāmi: ‘yathā yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevato nālaṁ antarāyāyā’”ti.
“Này kẻ ngu si kia, sao Ông lại hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy?
“Kassa kho nāma tvaṁ, moghapurisa, mayā evaṁ dhammaṁ desitaṁ ājānāsi?
Này kẻ ngu si kia, có phải chăng, Ta đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp. Và những ai thọ dụng chúng tự đủ bị chướng ngại?
Nanu mayā, moghapurisa, anekapariyāyena antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā? Alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
Ta đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
Appassādā kāmā vuttā mayā, bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Ta đã thuyết các dục được ví như khúc xương …
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā mayā …
Ta đã thuyết các dục được ví như miếng thịt …
maṁsapesūpamā kāmā vuttā mayā …
được ví như bó đuốc cỏ khô …
tiṇukkūpamā kāmā vuttā mayā …
được ví như hố than hừng …
aṅgārakāsūpamā kāmā vuttā mayā …
được ví như cơn mộng …
supinakūpamā kāmā vuttā mayā …
được ví như vật dụng cho mượn …
yācitakūpamā kāmā vuttā mayā …
được ví như trái cây …
rukkhaphalūpamā kāmā vuttā mayā …
được ví như lò thịt …
asisūnūpamā kāmā vuttā mayā …
được ví như gậy nhọn …
sattisūlūpamā kāmā vuttā mayā …
Ta đã thuyết các dục được ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
sappasirūpamā kāmā vuttā mayā, bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Và này kẻ ngu si kia, không những Ông xuyên tạc Ta, vì Ông đã tự chấp thủ sai lạc, Ông tự phá hoại Ông và tạo nên nhiều tổn đức.
Atha ca pana tvaṁ, moghapurisa, attanā duggahitena amhe ceva abbhācikkhasi, attānañca khanasi, bahuñca apuññaṁ pasavasi.
Này kẻ ngu si kia, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho Ông.”
Tañhi te, moghapurisa, bhavissati dīgharattaṁ ahitāya dukkhāyā”ti.
Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi:
“Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave,
Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng này có thể khởi lên tia lửa sáng gì trong Pháp và Luật này không?”
api nāyaṁ ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo usmīkatopi imasmiṁ dhammavinaye”ti?
“Bạch Thế Tôn, làm sao có thể được! Không thể được, bạch Thế Tôn”.
“Kiñhi siyā, bhante; no hetaṁ, bhante”ti.
Ðược nói vậy, Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng.
Evaṁ vutte, ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo tuṇhībhūto maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho pajjhāyanto appaṭibhāno nisīdi.
Rồi Thế Tôn, sau khi biết được Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng đang im lặng, hổ thẹn, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng, bèn nói với Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng:
Atha kho bhagavā ariṭṭhaṁ bhikkhuṁ gaddhabādhipubbaṁ tuṇhībhūtaṁ maṅkubhūtaṁ pattakkhandhaṁ adhomukhaṁ pajjhāyantaṁ appaṭibhānaṁ viditvā ariṭṭhaṁ bhikkhuṁ gaddhabādhipubbaṁ etadavoca:
“Này kẻ ngu si kia, người ta sẽ được biết Ông qua ác tà kiến của chính Ông. Ở đây, Ta sẽ hỏi các Tỷ-kheo.”
“paññāyissasi kho tvaṁ, moghapurisa, etena sakena pāpakena diṭṭhigatena. Idhāhaṁ bhikkhū paṭipucchissāmī”ti.
Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi:
“Chư Tỷ-kheo, các Ông có hiểu pháp Ta thuyết giảng, giống như Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng này, không những đã xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc, mà còn tự phá hoại mình và gây nên nhiều tổn đức?”
“tumhepi me, bhikkhave, evaṁ dhammaṁ desitaṁ ājānātha yathāyaṁ ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo attanā duggahitena amhe ceva abbhācikkhati, attānañca khanati, bahuñca apuññaṁ pasavatī”ti?
“Bạch Thế Tôn, không.
“No hetaṁ, bhante.
Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp; và những ai thọ dụng chúng, tự đủ bị chướng ngại.
Anekapariyāyena hi no, bhante, antarāyikā dhammā antarāyikā vuttā bhagavatā; alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
Thế Tôn đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
Appassādā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Thế Tôn đã thuyết các dục ví như khúc xương… (như trên)…
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā bhagavatā …pe…
Thế Tôn đã thuyết các dục ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.”
sappasirūpamā kāmā vuttā bhagavatā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo”ti.
“Lành thay, chư Tỷ-kheo! Lành thay, chư Tỷ-kheo! Các Ông hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy.
“Sādhu sādhu, bhikkhave, sādhu, kho me tumhe, bhikkhave, evaṁ dhammaṁ desitaṁ ājānātha.
Chư Tỷ-kheo, Ta đã dùng nhiều pháp môn thuyết chướng đạo pháp, và những ai thọ dụng chúng, tự đủ bị chướng ngại.
Anekapariyāyena hi kho, bhikkhave, antarāyikā dhammā vuttā mayā, alañca pana te paṭisevato antarāyāya.
Ta đã thuyết các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
Appassādā kāmā vuttā mayā, bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Ta đã thuyết các dục ví như khúc xương… (như trên)…
Aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā vuttā mayā …pe…
Ta đã thuyết các dục ví như đầu rắn, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, và do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn.
sappasirūpamā kāmā vuttā mayā, bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo.
Nhưng Tỷ-kheo Ariṭṭha, xưa làm nghề huấn luyện chim ưng, không những xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc mà còn tự phá hoại mình và tạo nên nhiều tổn đức,
Atha ca panāyaṁ ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo attanā duggahitena amhe ceva abbhācikkhati, attānañca khanati, bahuñca apuññaṁ pasavati.
và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh, đau khổ lâu ngày cho kẻ ngu si ấy.
Tañhi tassa moghapurisassa bhavissati dīgharattaṁ ahitāya dukkhāya.
Thật sự, này các Tỷ-kheo, sự kiện này không xảy ra, người ta có thể thọ dụng các dục ngoài các dục, ngoài các dục tưởng, ngoài các dục tầm.
So vata, bhikkhave, aññatreva kāmehi aññatra kāmasaññāya aññatra kāmavitakkehi kāme paṭisevissatīti—netaṁ ṭhānaṁ vijjati.
Chư Tỷ-kheo, ở đây có một số người ngu si học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng.
Idha, bhikkhave, ekacce moghapurisā dhammaṁ pariyāpuṇanti—suttaṁ, geyyaṁ, veyyākaraṇaṁ, gāthaṁ, udānaṁ, itivuttakaṁ, jātakaṁ, abbhutadhammaṁ, vedallaṁ.
Sau khi học các pháp này, họ không quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ.
Te taṁ dhammaṁ pariyāpuṇitvā tesaṁ dhammānaṁ paññāya atthaṁ na upaparikkhanti.
Những pháp ấy, vì ý nghĩa không được trí tuệ quán sát, nên không trở thành rõ ràng.
Tesaṁ te dhammā paññāya atthaṁ anupaparikkhataṁ na nijjhānaṁ khamanti.
Họ học các pháp chỉ vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, chỉ vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận, và họ không đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến.
Te upārambhānisaṁsā ceva dhammaṁ pariyāpuṇanti itivādappamokkhānisaṁsā ca. Yassa catthāya dhammaṁ pariyāpuṇanti tañcassa atthaṁ nānubhonti.
Những pháp ấy vì nắm giữ sai lạc nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài. Vì sao vậy?
Tesaṁ te dhammā duggahitā dīgharattaṁ ahitāya dukkhāya saṁvattanti. Taṁ kissa hetu?
Này các Tỷ-kheo, vì nắm giữ sai lạc các pháp.
Duggahitattā, bhikkhave, dhammānaṁ.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người ưa muốn rắn nước, tìm cầu rắn nước, đi khắp chỗ để tìm rắn nước.
Seyyathāpi, bhikkhave, puriso alagaddatthiko alagaddagavesī alagaddapariyesanaṁ caramāno.
Người đó thấy một con rắn nước lớn,
So passeyya mahantaṁ alagaddaṁ.
và người đó bắt con rắn ấy ở lưng hay ở đuôi.
Tamenaṁ bhoge vā naṅguṭṭhe vā gaṇheyya.
Con rắn ấy có thể quay lại cắn người đó nơi tay, nơi cánh tay hay ở một phần nào khác của cơ thể, và người đó có thể do nhân này mà bị chết hay bị đau khổ gần như chết. Vì sao vậy?
Tassa so alagaddo paṭiparivattitvā hatthe vā bāhāya vā aññatarasmiṁ vā aṅgapaccaṅge ḍaṁseyya. So tatonidānaṁ maraṇaṁ vā nigaccheyya maraṇamattaṁ vā dukkhaṁ. Taṁ kissa hetu?
Chư Tỷ-kheo, vì nắm bắt con rắn một cách sai lạc.
Duggahitattā, bhikkhave, alagaddassa.
Cũng vậy này các Tỷ-kheo, ở đây có một số người ngu si học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng.
Evameva kho, bhikkhave, idhekacce moghapurisā dhammaṁ pariyāpuṇanti—suttaṁ, geyyaṁ, veyyākaraṇaṁ, gāthaṁ, udānaṁ, itivuttakaṁ, jātakaṁ, abbhutadhammaṁ, vedallaṁ.
Sau khi học các pháp này, họ không quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ.
Te taṁ dhammaṁ pariyāpuṇitvā tesaṁ dhammānaṁ paññāya atthaṁ na upaparikkhanti.
Những pháp ấy, vì ý nghĩa không được trí tuệ quán sát, nên không trở thành rõ ràng.
Tesaṁ te dhammā paññāya atthaṁ anupaparikkhataṁ na nijjhānaṁ khamanti.
Họ học các pháp chỉ vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, chỉ vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận, và họ không đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến.
Te upārambhānisaṁsā ceva dhammaṁ pariyāpuṇanti itivādappamokkhānisaṁsā ca. Yassa catthāya dhammaṁ pariyāpuṇanti tañcassa atthaṁ nānubhonti.
Những pháp ấy vì nắm giữ sai lạc nên đưa họ đến bất hạnh, đau khổ lâu dài. Vì sao vậy?
Tesaṁ te dhammā duggahitā dīgharattaṁ ahitāya dukkhāya saṁvattanti. Taṁ kissa hetu?
Này các Tỷ-kheo, vì nắm giữ sai lạc các pháp.
Duggahitattā, bhikkhave, dhammānaṁ.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một số Thiện nam tử học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng.
Idha pana, bhikkhave, ekacce kulaputtā dhammaṁ pariyāpuṇanti—suttaṁ, geyyaṁ, veyyākaraṇaṁ, gāthaṁ, udānaṁ, itivuttakaṁ, jātakaṁ, abbhutadhammaṁ, vedallaṁ.
Sau khi học các pháp này, họ quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ.
Te taṁ dhammaṁ pariyāpuṇitvā tesaṁ dhammānaṁ paññāya atthaṁ upaparikkhanti.
Những pháp ấy, vì ý nghĩa được trí tuệ quán sát, nên trở thành rõ ràng.
Tesaṁ te dhammā paññāya atthaṁ upaparikkhataṁ nijjhānaṁ khamanti.
Họ học pháp không vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, không vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận,
Te na ceva upārambhānisaṁsā dhammaṁ pariyāpuṇanti na itivādappamokkhānisaṁsā ca.
và họ đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến.
Yassa catthāya dhammaṁ pariyāpuṇanti tañcassa atthaṁ anubhonti.
Những pháp ấy, vì khéo nắm giữ, nên đưa họ đến hạnh phúc, an lạc lâu dài. Vì sao vậy?
Tesaṁ te dhammā suggahitā dīgharattaṁ hitāya sukhāya saṁvattanti. Taṁ kissa hetu?
Này các Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ các pháp.
Suggahitattā bhikkhave dhammānaṁ.
Chư Tỷ-kheo, ví như một người ưa muốn rắn nước, tìm cầu rắn nước đi khắp chỗ để tìm rắn nước.
Seyyathāpi, bhikkhave, puriso alagaddatthiko alagaddagavesī alagaddapariyesanaṁ caramāno.
Người đó thấy một con rắn nước lớn.
So passeyya mahantaṁ alagaddaṁ.
Người đó có thể khéo đè con rắn nước với cây gậy có nạng.
Tamenaṁ ajapadena daṇḍena suniggahitaṁ niggaṇheyya.
Sau khi khéo đè với cây gậy có nạng, người đó có thể khéo nắm giữ cổ rắn.
Ajapadena daṇḍena suniggahitaṁ niggahitvā, gīvāya suggahitaṁ gaṇheyya.
Chư Tỷ-kheo, dầu cho con rắn nước ấy có thể cuốn thân nó xung quanh tay, hay cánh tay, hay một thân phần nào khác, người đó cũng không vì nhân duyên ấy đi đến chỗ chết hay đến sự đau khổ gần như chết. Vì sao vậy?
Kiñcāpi so, bhikkhave, alagaddo tassa purisassa hatthaṁ vā bāhaṁ vā aññataraṁ vā aṅgapaccaṅgaṁ bhogehi paliveṭheyya, atha kho so neva tatonidānaṁ maraṇaṁ vā nigaccheyya maraṇamattaṁ vā dukkhaṁ. Taṁ kissa hetu?
Chư Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ con rắn nước vậy.
Suggahitattā, bhikkhave, alagaddassa.
Cũng vậy, chư Tỷ-kheo, ở đây, một số Thiện nam tử học pháp, như Kinh, Ứng tụng, Giải thuyết, Kệ tụng, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu pháp, Phương quảng.
Evameva kho, bhikkhave, idhekacce kulaputtā dhammaṁ pariyāpuṇanti—suttaṁ, geyyaṁ, veyyākaraṇaṁ, gāthaṁ, udānaṁ, itivuttakaṁ, jātakaṁ, abbhutadhammaṁ, vedallaṁ.
Sau khi học các pháp này, họ quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ.
Te taṁ dhammaṁ pariyāpuṇitvā tesaṁ dhammānaṁ paññāya atthaṁ upaparikkhanti.
Những pháp ấy, vì ý nghĩa được trí tuệ quán sát, nên trở thành rõ ràng.
Tesaṁ te dhammā paññāya atthaṁ upaparikkhataṁ nijjhānaṁ khamanti.
Họ học pháp không vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, không vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận, và họ đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến.
Te na ceva upārambhānisaṁsā dhammaṁ pariyāpuṇanti, na itivādappamokkhānisaṁsā ca. Yassa catthāya dhammaṁ pariyāpuṇanti, tañcassa atthaṁ anubhonti.
Những pháp ấy, vì khéo nắm giữ, nên đưa họ đến hạnh phúc, an lạc lâu dài.
Tesaṁ te dhammā suggahitā dīgharattaṁ atthāya hitāya sukhāya saṁvattanti.
Vì sao vậy?
Taṁ kissa hetu?
Này các Tỷ-kheo, vì khéo nắm giữ các pháp.
Suggahitattā, bhikkhave, dhammānaṁ.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy hiểu rõ ý nghĩa lời Ta thuyết giảng và thọ trì như vậy.
Tasmātiha, bhikkhave, yassa me bhāsitassa atthaṁ ājāneyyātha, tathā naṁ dhāreyyātha.
Nếu có ai không hiểu rõ ý nghĩa lời Ta thuyết giảng thì ở nơi đây, các Ông hãy hỏi Ta hay hỏi những bậc Tỷ-kheo trí thức.
Yassa ca pana me bhāsitassa atthaṁ na ājāneyyātha, ahaṁ vo tattha paṭipucchitabbo, ye vā panāssu viyattā bhikkhū.
Chư Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các Ông, ví như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.”
Kullūpamaṁ vo, bhikkhave, dhammaṁ desessāmi nittharaṇatthāya, no gahaṇatthāya. Taṁ suṇātha, sādhukaṁ manasikarotha, bhāsissāmī”ti.
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
“Evaṁ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṁ. Bhagavā etadavoca:
“Này các Tỷ-kheo, ví như có người đang đi trên con đường lớn dài.
“Seyyathāpi, bhikkhave, puriso addhānamaggappaṭipanno.
đến một vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi,
So passeyya mahantaṁ udakaṇṇavaṁ, orimaṁ tīraṁ sāsaṅkaṁ sappaṭibhayaṁ, pārimaṁ tīraṁ khemaṁ appaṭibhayaṁ;
nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia.
na cassa nāvā santāraṇī uttarasetu vā apārā pāraṁ gamanāya.
Người đó tự suy nghĩ:
Tassa evamassa:
‘Ðây là vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia.
‘ayaṁ kho mahāudakaṇṇavo, orimaṁ tīraṁ sāsaṅkaṁ sappaṭibhayaṁ, pārimaṁ tīraṁ khemaṁ appaṭibhayaṁ; natthi ca nāvā santāraṇī uttarasetu vā apārā pāraṁ gamanāya.
‘Nay ta hãy thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá, cột lại thành chiếc bè, và dựa trên chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân, có thể vượt qua bờ bên kia một cách an toàn.’
Yannūnāhaṁ tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṁ saṅkaḍḍhitvā, kullaṁ bandhitvā, taṁ kullaṁ nissāya hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā pāraṁ uttareyyan’ti.
Chư Tỷ-kheo, rồi người đó thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá cột lại thành chiếc bè, và nhờ chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân vượt qua bờ bên kia một cách an toàn.
Atha kho so, bhikkhave, puriso tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṁ saṅkaḍḍhitvā, kullaṁ bandhitvā taṁ kullaṁ nissāya hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā pāraṁ uttareyya.
Khi qua bờ bên kia rồi, Người đó suy nghĩ:
Tassa purisassa uttiṇṇassa pāraṅgatassa evamassa:
‘Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn.
‘bahukāro kho me ayaṁ kullo; imāhaṁ kullaṁ nissāya hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā pāraṁ uttiṇṇo.
Nay ta hãy đội chiếc bè này trên đầu hay vác nó trên vai, và đi đến chỗ nào ta muốn’
Yannūnāhaṁ imaṁ kullaṁ sīse vā āropetvā khandhe vā uccāretvā yena kāmaṁ pakkameyyan’ti.
Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave,
Chư Tỷ-kheo, nếu người đó làm như vậy, thì có làm đúng với sở dụng của chiếc bè chăng?”
api nu so puriso evaṅkārī tasmiṁ kulle kiccakārī assā”ti?
“Bạch Thế Tôn, không.”
“No hetaṁ, bhante”.
“Chư Tỷ-kheo, người đó phải làm thế nào cho đúng sở dụng của chiếc bè?
“Kathaṅkārī ca so, bhikkhave, puriso tasmiṁ kulle kiccakārī assa?
Ở đây, chư Tỷ-kheo, người đó sau khi vượt qua bờ bên kia, có thể suy nghĩ:
Idha, bhikkhave, tassa purisassa uttiṇṇassa pāraṅgatassa evamassa:
‘Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta. Nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân đã vượt qua bờ bên kia một cách an toàn.
‘bahukāro kho me ayaṁ kullo; imāhaṁ kullaṁ nissāya hatthehi ca pādehi ca vāyamamāno sotthinā pāraṁ uttiṇṇo.
Nay ta hãy kéo chiếc bè này lên trên bờ đất khô, hay nhận chìm xuống nước, và đi đến chỗ nào ta muốn.’
Yannūnāhaṁ imaṁ kullaṁ thale vā ussādetvā udake vā opilāpetvā yena kāmaṁ pakkameyyan’ti.
Chư Tỷ-kheo, làm như vậy, người đó làm đúng sở dụng chiếc bè ấy.
Evaṅkārī kho so, bhikkhave, puriso tasmiṁ kulle kiccakārī assa.
Cũng vậy, này chư Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp như chiếc bè để vượt qua, không phải để nắm giữ lấy.
Evameva kho, bhikkhave, kullūpamo mayā dhammo desito nittharaṇatthāya, no gahaṇatthāya.
Chư Tỷ-kheo, các Ông cần hiểu ví dụ cái bè. Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp.
Kullūpamaṁ vo, bhikkhave, dhammaṁ desitaṁ, ājānantehi dhammāpi vo pahātabbā pageva adhammā.
Này các Tỷ-kheo, có sáu kiến xứ. Thế nào là sáu?
Chayimāni, bhikkhave, diṭṭhiṭṭhānāni. Katamāni cha?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu, không đi đến yết kiến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đi đến yết kiến các bậc Chơn nhơn, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, không tu tập pháp các bậc Chơn nhơn,
Idha, bhikkhave, assutavā puthujjano ariyānaṁ adassāvī ariyadhammassa akovido ariyadhamme avinīto, sappurisānaṁ adassāvī sappurisadhammassa akovido sappurisadhamme avinīto,
xem sắc pháp: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”;
rūpaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati;
xem cảm thọ: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”,
vedanaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati;
xem tưởng: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”,
saññaṁ ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati;
xem các hành: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”,
saṅkhāre ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati;
xem cái gì được thấy, được nghe, được cảm xúc, được ý thức, được đạt tới, được tìm cầu, được ý suy tư: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”,
yampi taṁ diṭṭhaṁ sutaṁ mutaṁ viññātaṁ pattaṁ pariyesitaṁ, anuvicaritaṁ manasā tampi ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati;
và bất cứ kiến xứ nào đều nói rằng:
yampi taṁ diṭṭhiṭṭhānaṁ—
“Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi”,
so loko so attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṁ tatheva ṭhassāmīti—
xem như vậy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”.
tampi ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’ti samanupassati.
Và này chư Tỷ-kheo, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục các pháp bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến yết kiến các bậc Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc Chơn nhơn.
Sutavā ca kho, bhikkhave, ariyasāvako ariyānaṁ dassāvī ariyadhammassa kovido ariyadhamme suvinīto, sappurisānaṁ dassāvī sappurisadhammassa kovido sappurisadhamme suvinīto,
xem sắc pháp: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”,
rūpaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati;
xem cảm thọ: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”,
vedanaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati;
xem tưởng: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”,
saññaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati;
xem các hành: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”,
saṅkhāre ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati;
xem cái gì được thấy, được nghe, được cảm xúc, được ý thức, được đạt tới, được tìm cầu, được ý suy tư: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”,
yampi taṁ diṭṭhaṁ sutaṁ mutaṁ viññātaṁ pattaṁ pariyesitaṁ, anuvicaritaṁ manasā, tampi ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati;
và bất cứ kiến xứ nào đều nói rằng:
yampi taṁ diṭṭhiṭṭhānaṁ—
“Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi”,
so loko so attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṁ tatheva ṭhassāmīti—
xem như vậy là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.
tampi ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti samanupassati.
Vị này do quán sát như vậy, đối với sự vật chẳng thật có nên không có lo âu, phiền muộn.”
So evaṁ samanupassanto asati na paritassatī”ti.
Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṁ etadavoca:
“Có thể có cái gì không thực có ở ngoài, có thể gây lo âu phiền muộn?”
“siyā nu kho, bhante, bahiddhā asati paritassanā”ti?
Thế Tôn đáp: “Có thể có, này Tỷ-kheo”.
“Siyā, bhikkhū”ti—bhagavā avoca.
“Ở đây, có người nghĩ như sau:
“Idha bhikkhu ekaccassa evaṁ hoti:
‘Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi.
‘ahu vata me, taṁ vata me natthi;
Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy.’
siyā vata me, taṁ vatāhaṁ na labhāmī’ti.
Người đó sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh.
So socati kilamati paridevati urattāḷiṁ kandati sammohaṁ āpajjati.
Này Tỷ-kheo, như vậy, có cái không thực có ở ngoài, có thể gây lo âu, phiền muộn.”
Evaṁ kho, bhikkhu, bahiddhā asati paritassanā hotī”ti.
“Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở ngoài, có thể không gây lo âu phiền muộn?”
“Siyā pana, bhante, bahiddhā asati aparitassanā”ti?
Thế Tôn đáp: “Có thể có, này Tỷ-kheo.”
“Siyā, bhikkhū”ti—bhagavā avoca.
“Ở đây, này Tỷ-kheo, có người không nghĩ như sau:
“Idha bhikkhu ekaccassa na evaṁ hoti:
‘Cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi.
‘ahu vata me, taṁ vata me natthi;
Cái gì chắc chắn có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái ấy.’
siyā vata me, taṁ vatāhaṁ na labhāmī’ti.
Người đó không sầu muộn, than vãn, khóc lóc, không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh.
So na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṁ kandati na sammohaṁ āpajjati.
Như vậy, này Tỷ-kheo, có cái không thực có ở ngoài, không gây lo âu phiền muộn.”
Evaṁ kho, bhikkhu, bahiddhā asati aparitassanā hotī”ti.
“Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở trong có thể gây ra lo âu phiền muộn?”
“Siyā nu kho, bhante, ajjhattaṁ asati paritassanā”ti?
Thế Tôn đáp: “Có thể có, này Tỷ-kheo.”
“Siyā, bhikkhū”ti—bhagavā avoca.
“ở đây, này Tỷ-kheo, có người có (tà) kiến như sau:
“Idha, bhikkhu, ekaccassa evaṁ diṭṭhi hoti:
‘Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú không biến chuyển. Tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi.’
‘so loko so attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṁ tatheva ṭhassāmī’ti.
Người này nghe Như Lai hay đệ tử Như Lai thuyết pháp để bạt trừ tất cả kiến xứ, cố chấp, thiên chấp, thiên kiến, tùy miên, sự tịnh chỉ mọi hành động, sự từ bỏ mọi sanh y, sự diệt trừ khát ái đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn.
So suṇāti tathāgatassa vā tathāgatasāvakassa vā sabbesaṁ diṭṭhi-ṭhāna-adhiṭṭhāna-pariyuṭṭhāna-bhinivesa-anusayānaṁ samugghātāya sabba-saṅkhāra-samathāya sabbūpadhipaṭinissaggāya taṇhākkhayāya virāgāya nirodhāya nibbānāya dhammaṁ desentassa.
Người đó có thể nghĩ như sau: “Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ bị hoại diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại”.
Tassa evaṁ hoti: ‘ucchijjissāmi nāmassu, vinassissāmi nāmassu, nassu nāma bhavissāmī’ti.
Người đó sầu muộn, than vãn, khóc lóc, đấm ngực, đi đến bất tỉnh.
So socati kilamati paridevati urattāḷiṁ kandati sammohaṁ āpajjati.
Này Tỷ-kheo, như vậy là có cái không thực có ở trong có thể gây ra lo âu phiền muộn.”
Evaṁ kho, bhikkhu, ajjhattaṁ asati paritassanā hotī”ti.
“Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở trong, không gây ra lo âu, phiền muộn?”
“Siyā pana, bhante, ajjhattaṁ asati aparitassanā”ti?
Thế Tôn đáp: “Có thể có, này Tỷ-kheo”.
“Siyā, bhikkhū”ti bhagavā avoca.
“Ở đây, có người không có (tà) kiến như sau:
“Idha, bhikkhu, ekaccassa na evaṁ diṭṭhi hoti:
‘Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, tôi sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi.’
‘so loko so attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṁ tatheva ṭhassāmī’ti.
Người này nghe Như Lai hay đệ tử Như Lai thuyết pháp để bạt trừ tất cả kiến xứ, cố chấp, thiên chấp, thiên kiến, tùy miên, sự tịnh chi mọi hành động, sự từ bỏ mọi sanh y, sự diệt trừ khát ái để đưa đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn.
So suṇāti tathāgatassa vā tathāgatasāvakassa vā sabbesaṁ diṭṭhi-ṭhāna-adhiṭṭhāna-pariyuṭṭhāna-abhinivesa-anusayānaṁ samugghātāya sabbasaṅkhārasamathāya sabbūpadhipaṭinissaggāya taṇhākkhayāya virāgāya nirodhāya nibbānāya dhammaṁ desentassa.
Vị ấy không nghĩ như sau: “Chắc chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ bị hoại diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại”.
Tassa na evaṁ hoti: ‘ucchijjissāmi nāmassu, vinassissāmi nāmassu, nassu nāma bhavissāmī’ti.
Vị ấy không sầu muộn, than vãn, khóc lóc; vị ấy không đấm ngực, không đi đến bất tỉnh.
So na socati na kilamati na paridevati na urattāḷiṁ kandati na sammohaṁ āpajjati.
Này các Tỷ-kheo, như vậy là có cái không thực có ở trong, không gây ra lo âu, phiền muộn.
Evaṁ kho, bhikkhu, ajjhattaṁ asati aparitassanā hoti.
Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể nắm giữ một vật sở hữu gì, và vật sở hữu được nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chuyển biến, có thể trú như thế này mãi mãi không?
Taṁ, bhikkhave, pariggahaṁ pariggaṇheyyātha, yvāssa pariggaho nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṁ tatheva tiṭṭheyya.
Chư Tỷ-kheo, các Ông có thể thấy một vật sở hữu nào được nắm giữ và vật sở hữu được nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chuyển biến, có thể trú như thế này mãi mãi không?”
Passatha no tumhe, bhikkhave, taṁ pariggahaṁ yvāssa pariggaho nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṁ tatheva tiṭṭheyyā”ti?
“Bạch Thế Tôn, không.”
“No hetaṁ, bhante”.
“Lành thay, này các Tỷ-kheo.
“Sādhu, bhikkhave.
Này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy một vật sở hữu được nắm giữ nào, mà vật sở hữu được nắm giữ ấy sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không chuyển biến, có thể trú như thế này mãi mãi.
Ahampi kho taṁ, bhikkhave, pariggahaṁ na samanupassāmi yvāssa pariggaho nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo sassatisamaṁ tatheva tiṭṭheyya.
Này các Tỷ-kheo, các Ông có thể chấp thủ Ngã luận thủ nào mà Ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
Taṁ, bhikkhave, attavādupādānaṁ upādiyetha, yaṁsa attavādupādānaṁ upādiyato na uppajjeyyuṁ soka-parideva-dukkha-domanassupāyāsā.
Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy Ngã luận thủ nào mà Ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?”
Passatha no tumhe, bhikkhave, taṁ attavādupādānaṁ yaṁsa attavādupādānaṁ upādiyato na uppajjeyyuṁ soka-parideva-dukkha-domanassupāyāsā”ti?
“Bạch Thế Tôn không.”
“No hetaṁ, bhante”.
“Lành thay, này các Tỷ-kheo.
“Sādhu, bhikkhave.
Này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy Ngã luận thủ nào mà Ngã luận thủ ấy được chấp thủ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.
Ahampi kho taṁ, bhikkhave, attavādupādānaṁ na samanupassāmi yaṁsa attavādupādānaṁ upādiyato na uppajjeyyuṁ soka-parideva-dukkha-domanassupāyāsā.
Này các Tỷ-kheo, các Ông có kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?
Taṁ, bhikkhave, diṭṭhinissayaṁ nissayetha yaṁsa diṭṭhinissayaṁ nissayato na uppajjeyyuṁ soka-parideva-dukkha-domanassupāyāsā.
Này các Tỷ-kheo, các Ông có thấy kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như vậy lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?”
Passatha no tumhe, bhikkhave, taṁ diṭṭhinissayaṁ yaṁsa diṭṭhinissayaṁ nissayato na uppajjeyyuṁ soka-parideva-dukkha-domanassupāyāsā”ti?
“Bạch Thế Tôn, không.”
“No hetaṁ, bhante”.
“Lành thay, này các Tỷ-kheo!
“Sādhu, bhikkhave.
Này các Tỷ-kheo, Ta cũng không thấy một kiến y nào, mà kiến y ấy được y chỉ như vậy, lại không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não.
Ahampi kho taṁ, bhikkhave, diṭṭhinissayaṁ na samanupassāmi yaṁsa diṭṭhinissayaṁ nissayato na uppajjeyyuṁ soka-parideva-dukkha-domanassupāyāsā.
Chư Tỷ-kheo, nếu có ngã thời có ngã sở thuộc của tôi không?”
Attani vā, bhikkhave, sati ‘attaniyaṁ me’ti assā”ti?
“Bạch Thế Tôn, có.”
“Evaṁ, bhante”.
“Chư Tỷ-kheo, nếu có ngã sở thuộc, thời có ngã của tôi không?”
“Attaniye vā, bhikkhave, sati ‘attā me’ti assā”ti?
“Bạch Thế Tôn, có.”
“Evaṁ, bhante”.
“Chư Tỷ-kheo, nếu ngã và ngã sở thuộc không thể được chấp nhận là thường còn, thường hằng, thì kiến xứ này:
“Attani ca, bhikkhave, attaniye ca saccato thetato anupalabbhamāne, yampi taṁ diṭṭhiṭṭhānaṁ:
‘Ðây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thành thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế này cho đến mãi mãi’. Này các Tỷ-kheo, kiến xứ ấy là hoàn toàn, triệt để chẳng ngu si không?”
‘so loko so attā, so pecca bhavissāmi nicco dhuvo sassato avipariṇāmadhammo, sassatisamaṁ tatheva ṭhassāmī’ti—nanāyaṁ, bhikkhave, kevalo paripūro bāladhammo”ti?
“Bạch Thế Tôn, làm sao có thể hoàn toàn, triệt để chẳng ngu si được.”
“Kiñhi no siyā, bhante, kevalo hi, bhante, paripūro bāladhammo”ti.
“Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?”
“Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave, rūpaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?
“Bạch Thế Tôn, vô thường.”
“Aniccaṁ, bhante”.
“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?
“Bạch Thế Tôn, khổ.”
“Dukkhaṁ, bhante”.
Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thì có hợp lý chăng khi chánh quán cái ấy là: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ—etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā”ti?
“Bạch Thế Tôn, không.”
“No hetaṁ, bhante”.
“Chư Tỷ-kheo, cảm thọ là thường hay vô thường?
“Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave,
Cái gì vô thường là khổ hay lạc? …
vedanā …pe…
Chư Tỷ-kheo, tưởng là thường hay vô thường? …
saññā …
Chư Tỷ-kheo, các hành là thường hay vô thường? …
saṅkhārā …
chư Tỷ-kheo, thức là thường hay vô thường?”
viññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?
“Bạch Thế Tôn, vô thường.”
“Aniccaṁ, bhante”.
“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?
“Bạch Thế Tôn, khổ.”
“Dukkhaṁ, bhante”.
“Cái gì vô thường, khổ thì có hợp lý chăng, khi chánh quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ—etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā”ti?
“Bạch Thế Tôn, không.”
“No hetaṁ, bhante”.
“Do vậy, này các Tỷ-kheo, bất cứ các sắc pháp nào, quá khứ, tương lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc pháp là: ‘Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi’.
“Tasmātiha, bhikkhave, yaṁ kiñci rūpaṁ atītānāgatapaccuppannaṁ, ajjhattaṁ vā bahiddhā vā, oḷārikaṁ vā sukhumaṁ vā, hīnaṁ vā paṇītaṁ vā, yaṁ dūre santike vā, sabbaṁ rūpaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti—
cần phải như thật quán với chánh trí tuệ.
evametaṁ yathābhūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ.
Bất cứ cảm thọ nào …
Yā kāci vedanā …pe…
Bất cứ tưởng nào …
yā kāci saññā …
Bất cứ hành nào …
ye keci saṅkhārā …
Bất cứ thức nào, quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả thức là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. cần phải như thật quán với chánh trí tuệ.
yaṁ kiñci viññāṇaṁ atītānāgatapaccuppannaṁ, ajjhattaṁ vā bahiddhā vā, oḷārikaṁ vā sukhumaṁ vā, hīnaṁ vā paṇītaṁ vā, yaṁ dūre santike vā, sabbaṁ viññāṇaṁ ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti—evametaṁ yathābhūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ.
Chư Tỷ-kheo, nhờ thấy vậy, vị Ða văn Thánh đệ tử yểm ly đối với sắc, yểm ly đối với thọ, yểm ly đối với tưởng, yểm ly đối với hành, yểm ly đối với thức, do yểm ly nên ly tham, do ly tham, nên được giải thoát, trong sự giải thoát có trí khởi lên, biết được đã giải thoát.
Evaṁ passaṁ, bhikkhave, sutavā ariyasāvako rūpasmiṁ nibbindati, vedanāya nibbindati, saññāya nibbindati, saṅkhāresu nibbindati, viññāṇasmiṁ nibbindati, nibbidā virajjati, virāgā vimuccati, vimuttasmiṁ vimuttamiti ñāṇaṁ hoti.
Vị ấy biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lui tại đây với một đời sống khác”.
‘Khīṇā jāti, vusitaṁ brahmacariyaṁ, kataṁ karaṇīyaṁ, nāparaṁ itthattāyā’ti pajānāti.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đã vất bỏ đi các chướng ngại vật, là vị đã lấp đầy các thông hào, là vị đã nhổ lên cột trụ, là vị đã mở tung các lề khóa, là bậc Thánh đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.
Ayaṁ vuccati, bhikkhave, bhikkhu ukkhittapaligho itipi, saṅkiṇṇaparikkho itipi, abbūḷhesiko itipi, niraggaḷo itipi, ariyo pannaddhajo pannabhāro visaṁyutto itipi.
Và thế nào là Tỷ-kheo đã vất bỏ đi các chướng ngại?
Kathañca, bhikkhave, bhikkhu ukkhittapaligho hoti?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, là đã đoạn trừ vô minh, cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi.
Idha, bhikkhave, bhikkhuno avijjā pahīnā hoti, ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā, āyatiṁ anuppādadhammā.
Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã vất bỏ đi các chướng ngại.
Evaṁ kho, bhikkhave, bhikkhu ukkhittapaligho hoti.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã lấp đầy các thông hào?
Kathañca, bhikkhave, bhikkhu saṅkiṇṇaparikkho hoti?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ tái sanh và sự luân chuyển sanh tử, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi.
Idha, bhikkhave, bhikkhuno ponobbhaviko jātisaṁsāro pahīno hoti, ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṅkato, āyatiṁ anuppādadhammo.
Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã lấp đầy thông hào.
Evaṁ kho, bhikkhave, bhikkhu saṅkiṇṇaparikkho hoti.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ?
Kathañca, bhikkhave, bhikkhu abbūḷhesiko hoti?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ khát ái, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi.
Idha, bhikkhave, bhikkhuno taṇhā pahīnā hoti, ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā, āyatiṁ anuppādadhammā.
Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã nhổ lên cột trụ.
Evaṁ kho, bhikkhave, bhikkhu abbūḷhesiko hoti.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo đã mở tung các lề khóa?
Kathañca, bhikkhave, bhikkhu niraggaḷo hoti?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi.
Idha, bhikkhave, bhikkhuno pañca orambhāgiyāni saṁyojanāni pahīnāni honti, ucchinnamūlāni tālāvatthukatāni anabhāvaṅkatāni, āyatiṁ anuppādadhammāni.
Chư Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo đã mở tung các lề khóa.
Evaṁ kho, bhikkhave, bhikkhu niraggaḷo hoti.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo bậc Thánh, đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy?
Kathañca, bhikkhave, bhikkhu ariyo pannaddhajo pannabhāro visaṁyutto hoti?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã đoạn trừ ngã mạn, đã cắt tận gốc rễ, làm cho như cây ta-la bị chặt đầu, khiến không thể tái sanh trong tương lai, không có khả năng sanh khởi.
Idha, bhikkhave, bhikkhuno asmimāno pahīno hoti, ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṅkato, āyatiṁ anuppādadhammo.
Chư Tỷ-kheo, như vậy là vị Tỷ-kheo bậc Thánh, đã hạ cây cờ xuống, đã đặt gánh nặng xuống, không có gì hệ lụy.
Evaṁ kho, bhikkhave, bhikkhu ariyo pannaddhajo pannabhāro visaṁyutto hoti.
Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đã giải thoát như vậy, thì chư Thiên ở Ðế thích Thiên giới, Phạm thiên giới, Sanh chủ giới sẽ không tìm được dấu vết của Tỷ-kheo ấy, nếu nghĩ rằng:
Evaṁ vimuttacittaṁ kho, bhikkhave, bhikkhuṁ saindā devā sabrahmakā sapajāpatikā anvesaṁ nādhigacchanti:
“Y ở đây, có thức của Như Lai”. Vì sao vậy?
‘idaṁ nissitaṁ tathāgatassa viññāṇan’ti. Taṁ kissa hetu?
Chư Tỷ-kheo, Ta nói ngay ở hiện tại, một Như Lai không thể tìm thấy dấu vết.
Diṭṭhevāhaṁ, bhikkhave, dhamme tathāgataṁ ananuvijjoti vadāmi.
Chư Tỷ-kheo, Ta nói như vậy, thuyết như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn xuyên tạc Ta một cách phi chơn, hồ đồ, hư vọng, không thực:
Evaṁvādiṁ kho maṁ, bhikkhave, evamakkhāyiṁ eke samaṇabrāhmaṇā asatā tucchā musā abhūtena abbhācikkhanti:
‘Sa-môn Gotama chủ trương chủ nghĩa hư vô, đề cao đoạn diệt, hủy diệt, sự tiêu diệt các hữu tình.’
‘venayiko samaṇo gotamo, sato sattassa ucchedaṁ vināsaṁ vibhavaṁ paññāpetī’ti.
Nhưng này các Tỷ-kheo, Ta không là như vậy, Ta không nói như vậy, Ta không như các Sa-môn, Bà-la-môn ấy đã xuyên tạc một cách phi chơn, hồ đồ, hư vọng, không thật:
Yathā cāhaṁ na, bhikkhave, yathā cāhaṁ na vadāmi, tathā maṁ te bhonto samaṇabrāhmaṇā asatā tucchā musā abhūtena abbhācikkhanti:
‘Sa-môn Gotama chủ trương chủ nghĩa hư vô, đề cao đoạn diệt, hủy diệt, sự tiêu diệt các hữu tình’.
‘venayiko samaṇo gotamo, sato sattassa ucchedaṁ vināsaṁ vibhavaṁ paññāpetī’ti.
Chư Tỷ-kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ.
Pubbe cāhaṁ, bhikkhave, etarahi ca dukkhañceva paññāpemi, dukkhassa ca nirodhaṁ.
Chư Tỷ-kheo, nếu ở đây những người khác nhiếc mắng, phỉ báng, làm cho Như Lai tức giận, thì này các Tỷ-kheo, ở đây, Như Lai không có sân hận, không có bất mãn, tâm không phẫn nộ.
Tatra ce, bhikkhave, pare tathāgataṁ akkosanti paribhāsanti rosenti vihesenti, tatra, bhikkhave, tathāgatassa na hoti āghāto na appaccayo na cetaso anabhiraddhi.
Chư Tỷ-kheo, nếu ở đây, những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Như Lai, thì này các Tỷ-kheo, ở đây Như Lai không có hoan hỷ, sung sướng, Tâm không thích thú.
Tatra ce, bhikkhave, pare tathāgataṁ sakkaronti garuṁ karonti mānenti pūjenti, tatra, bhikkhave, tathāgatassa na hoti ānando na somanassaṁ na cetaso uppilāvitattaṁ.
Chư Tỷ-kheo, nếu những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường Như Lai, thì này các Tỷ-kheo, ở đây Như Lai suy nghĩ:
Tatra ce, bhikkhave, pare vā tathāgataṁ sakkaronti garuṁ karonti mānenti pūjenti, tatra, bhikkhave, tathāgatassa evaṁ hoti:
‘Ðây là điều xưa kia đã từng biết rõ: ở đây là trách nhiệm Ta phải làm.’
‘yaṁ kho idaṁ pubbe pariññātaṁ tattha me evarūpā kārā karīyantī’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có những người khác nhiếc mắng, phỉ báng, làm cho các Ông tức giận, ở đây các Ông chớ có sân hận, bất mãn, tâm chớ khởi phẫn nộ.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhe cepi pare akkoseyyuṁ paribhāseyyuṁ roseyyuṁ viheseyyuṁ, tatra tumhe hi na āghāto na appaccayo na cetaso anabhiraddhi karaṇīyā.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái cúng dường các Ông, thì ở đây, các Ông chớ có hoan hỷ, sung sướng, tâm sanh thích thú.
Tasmātiha, bhikkhave, tumhe cepi pare sakkareyyuṁ garuṁ kareyyuṁ māneyyuṁ pūjeyyuṁ, tatra tumhehi na ānando na somanassaṁ na cetaso uppilāvitattaṁ karaṇīyaṁ.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, nếu có những người khác cung kính, tôn trọng, lễ bái cúng dường các Ông, thì ở đây, các Ông hãy suy nghĩ:
Tasmātiha, bhikkhave, tumhe cepi pare sakkareyyuṁ garuṁ kareyyuṁ māneyyuṁ pūjeyyuṁ, tatra tumhākaṁ evamassa:
“Ðây là điều xưa kia đã từng biết rõ, đây là những trách nhiệm ta phải làm”.
‘yaṁ kho idaṁ pubbe pariññātaṁ, tattha me evarūpā kārā karīyantī’ti.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông, các Ông hãy từ bỏ.
Tasmātiha, bhikkhave, yaṁ na tumhākaṁ taṁ pajahatha;
Các Ông từ bỏ, sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
taṁ vo pahīnaṁ dīgharattaṁ hitāya sukhāya bhavissati.
Chư Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông?
Kiñca, bhikkhave, na tumhākaṁ?
Chư Tỷ-kheo, sắc không phải của các Ông, hãy từ bỏ sắc.
Rūpaṁ, bhikkhave, na tumhākaṁ, taṁ pajahatha;
Các Ông từ bỏ sắc sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
taṁ vo pahīnaṁ dīgharattaṁ hitāya sukhāya bhavissati.
Chư Tỷ-kheo, thọ không phải của các Ông, hãy từ bỏ thọ.
Vedanā, bhikkhave, na tumhākaṁ, taṁ pajahatha;
Các Ông từ bỏ thọ sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
sā vo pahīnā dīgharattaṁ hitāya sukhāya bhavissati.
Chư Tỷ-kheo, tưởng không phải của các Ông, hãy từ bỏ tưởng.
Saññā, bhikkhave, na tumhākaṁ, taṁ pajahatha;
Các Ông từ bỏ tưởng sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
sā vo pahīnā dīgharattaṁ hitāya sukhāya bhavissati.
Chư Tỷ-kheo, các hành không phải của các Ông, hãy từ bỏ các hành.
Saṅkhārā, bhikkhave, na tumhākaṁ, te pajahatha;
Các Ông từ bỏ các hành sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
te vo pahīnā dīgharattaṁ hitāya sukhāya bhavissanti.
Chư Tỷ-kheo, thức không phải của các Ông, hãy từ bỏ thức.
Viññāṇaṁ, bhikkhave, na tumhākaṁ, taṁ pajahatha;
Các Ông từ bỏ thức sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
taṁ vo pahīnaṁ dīgharattaṁ hitāya sukhāya bhavissati.
Chư Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave,
Trong rừng Jetavana này, nếu có người thâu lượm cỏ, cây, nhành, lá rồi đốt hay làm với chúng tùy theo ý muốn.
yaṁ imasmiṁ jetavane tiṇakaṭṭhasākhāpalāsaṁ, taṁ jano hareyya vā daheyya vā yathāpaccayaṁ vā kareyya.
các Ông có nghĩ : Người ấy thâu lượm chúng ta, đốt chúng ta hay làm với chúng ta tùy theo ý muốn?
Api nu tumhākaṁ evamassa: ‘amhe jano harati vā dahati vā yathāpaccayaṁ vā karotī’”ti?
“Bạch Thế Tôn, không. Vì sao vậy?
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?
Bạch Thế Tôn, vì nó không phải tự ngã hay không phải sở thuộc của ngã.”
“Na hi no etaṁ, bhante, attā vā attaniyaṁ vā”ti.
“Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các Ông, các Ông hãy từ bỏ.
“Evameva kho, bhikkhave, yaṁ na tumhākaṁ taṁ pajahatha;
Các Ông từ bỏ sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
taṁ vo pahīnaṁ dīgharattaṁ hitāya sukhāya bhavissati.
Chư Tỷ-kheo, và cái gì không phải của các Ông?
Kiñca, bhikkhave, na tumhākaṁ?
Chư Tỷ-kheo, sắc không phải của các Ông, hãy từ bỏ sắc.
Rūpaṁ, bhikkhave, na tumhākaṁ, taṁ pajahatha;
Các Ông từ bỏ sắc sẽ đưa lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
taṁ vo pahīnaṁ dīgharattaṁ hitāya sukhāya bhavissati.
Chư Tỷ-kheo, thọ. …
Vedanā, bhikkhave …pe…
Chư Tỷ-kheo tưởng …
saññā, bhikkhave …
Chư Tỷ-kheo, hành …
saṅkhārā, bhikkhave …pe…
Chư Tỷ-kheo, thức không phải của các Ông, hãy từ bỏ thức.
viññāṇaṁ, bhikkhave, na tumhākaṁ, taṁ pajahatha;
Các Ông từ bỏ thức sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài cho các Ông.
taṁ vo pahīnaṁ dīgharattaṁ hitāya sukhāya bhavissati.
Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng, làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ.
Evaṁ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng, làm tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ, nên những vị Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, lý tưởng đã thành đạt, hữu kiết sử đã đoạn trừ, được giải thoát nhờ chánh trí, vòng luân chuyển (sanh tử) của những vị này không thể chỉ bày.
Evaṁ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike ye te bhikkhū arahanto khīṇāsavā vusitavanto katakaraṇīyā ohitabhārā anuppattasadatthā parikkhīṇabhavasaṁyojanā sammadaññāvimuttā, vaṭṭaṁ tesaṁ natthi paññāpanāya.
Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng, làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ.
Evaṁ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng, được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, thì những vị này thành các vị hóa sanh, nhập diệt tại đây, không còn phải trở lui vào đời này nữa.
Evaṁ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṁ bhikkhūnaṁ pañcorambhāgiyāni saṁyojanāni pahīnāni, sabbe te opapātikā, tattha parinibbāyino, anāvattidhammā tasmā lokā.
Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng, làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ.
Evaṁ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng … được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào đã đoạn trừ ba kiết sử, đã làm cho muội lược tham sân si, thì tất cả những vị ấy thành bậc Nhất lai, chỉ đến đời này một lần nữa sẽ diệt tận khổ đau.
Evaṁ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṁ bhikkhūnaṁ tīṇi saṁyojanāni pahīnāni, rāgadosamohā tanubhūtā, sabbe te sakadāgāmino, sakideva imaṁ lokaṁ āgantvā dukkhassantaṁ karissanti.
Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng, làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ.
Evaṁ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng … được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào đoạn trừ ba kiết sử, thì tất cả những vị ấy trở thành bậc Dự lưu, không còn bị đọa lạc ác thú, quyết định hướng đến chánh giác.
Evaṁ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṁ bhikkhūnaṁ tīṇi saṁyojanāni pahīnāni, sabbe te sotāpannā, avinipātadhammā, niyatā sambodhiparāyanā.
Chư Tỷ-kheo, như vậy, pháp được Ta khéo giảng… được loại trừ các vải quấn cũ.
Evaṁ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Chư Tỷ-kheo, vì pháp được ta khéo giảng… được loại trừ các vải quấn cũ, nên những Tỷ-kheo nào là những vị tùy pháp hành, tùy tín hành, thì tất cả những vị này sẽ hướng về chánh giác.
Evaṁ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike ye te bhikkhū dhammānusārino saddhānusārino sabbe te sambodhiparāyanā.
Chư Tỷ-kheo, như vậy pháp được Ta khéo giảng… được loại trừ khỏi các vải quấn cũ.
Evaṁ svākkhāto, bhikkhave, mayā dhammo uttāno vivaṭo pakāsito chinnapilotiko.
Chư Tỷ-kheo, vì pháp được Ta khéo giảng, làm cho tỏ lộ, làm cho khai thông, làm cho khai thị, được loại trừ các vải quấn cũ, nên những vị nào chỉ đủ lòng tin nơi Ta, chỉ đủ lòng thương mến đối với Ta, thì tất cả những vị ấy được hướng về chư Thiên.”
Evaṁ svākkhāte, bhikkhave, mayā dhamme uttāne vivaṭe pakāsite chinnapilotike yesaṁ mayi saddhāmattaṁ pemamattaṁ sabbe te saggaparāyanā”ti.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Những Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Idamavoca bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṁ abhinandunti.
Alagaddūpamasuttaṁ niṭṭhitaṁ dutiyaṁ.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt