Sáng/Tối

Majjhima Nikāya - Trung Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trung Bộ 146

Trung Bộ 146
Majjhima Nikāya 146

Kinh Giáo Giới Nandaka
Nandakovādasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—

Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tại tinh xá ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc).
ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Rồi Mahāpajāpatī Gotamī cùng với khoảng năm trăm Tỷ-kheo-ni đi đến bên Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Mahāpajāpatī Gotamī bạch Thế Tôn:
Atha kho mahāpajāpatigotamī pañcamattehi bhikkhunisatehi saddhiṁ yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhitā kho mahāpajāpatigotamī bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy giáo giới cho Tỷ-kheo-ni!
“ovadatu, bhante, bhagavā bhikkhuniyo;

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy giảng dạy cho Tỷ-kheo-ni!
anusāsatu, bhante, bhagavā bhikkhuniyo;

Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho Tỷ-kheo-ni!”
karotu, bhante, bhagavā bhikkhunīnaṁ dhammiṁ kathan”ti.

Lúc bấy giờ, các Thượng tọa (Trưởng lão) Tỷ-kheo thay phiên giáo giới Tỷ-kheo-ni.
Tena kho pana samayena therā bhikkhū bhikkhuniyo ovadanti pariyāyena.

Nhưng Tôn giả Nandaka không muốn thay phiên giáo giới Tỷ-kheo-ni.
Āyasmā nandako na icchati bhikkhuniyo ovadituṁ pariyāyena.

Rồi Thế Tôn cho gọi Tôn giả Ānanda và nói:
Atha kho bhagavā āyasmantaṁ ānandaṁ āmantesi:

“Này Ānanda, hôm nay đến phiên ai giáo giới Tỷ-kheo-ni?”
“kassa nu kho, ānanda, ajja pariyāyo bhikkhuniyo ovadituṁ pariyāyenā”ti?

“Bạch Thế Tôn, chính là phiên của Nandaka thay phiên giáo giới Tỷ-kheo-ni.
“Sabbeheva, bhante, kato pariyāyo bhikkhuniyo ovadituṁ pariyāyena.

Bạch Thế Tôn, Tôn giả Nandaka không muốn thay phiên giáo giới Tỷ-kheo-ni”.
Ayaṁ, bhante, āyasmā nandako na icchati bhikkhuniyo ovadituṁ pariyāyenā”ti.

Rồi Thế Tôn cho gọi Tôn giả Nandaka:
Atha kho bhagavā āyasmantaṁ nandakaṁ āmantesi:

“Này Nandaka, hãy giáo giới Tỷ-kheo-ni!
“ovada, nandaka, bhikkhuniyo;

Này Nandaka, hãy giảng dạy Tỷ-kheo-ni!
anusāsa, nandaka, bhikkhuniyo;

Này Bà-la-môn, hãy thuyết pháp cho Tỷ-kheo-ni!”
karohi tvaṁ, brāhmaṇa, bhikkhunīnaṁ dhammiṁ kathan”ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”.Tôn giả Nandaka ấy vâng đáp Thế Tôn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sāvatthī để khất thực.
“Evaṁ, bhante”ti kho āyasmā nandako bhagavato paṭissutvā pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṁ piṇḍāya pāvisi.

Sau khi khất thực ở Sāvatthī xong, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, không có người thứ hai cùng đi, đi đến Rajakarama (Vương Tự).
Sāvatthiyaṁ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṁ piṇḍapātapaṭikkanto attadutiyo yena rājakārāmo tenupasaṅkami.

Các Tỷ-kheo-ni ấy thấy Tôn giả Nandaka từ xa đi đến, sau khi thấy liền sửa soạn chỗ ngồi và sắp đặt nước rửa chân.
Addasaṁsu kho tā bhikkhuniyo āyasmantaṁ nandakaṁ dūratova āgacchantaṁ. Disvāna āsanaṁ paññāpesuṁ, udakañca pādānaṁ upaṭṭhapesuṁ.

Tôn giả Nandaka ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn;
Nisīdi kho āyasmā nandako paññatte āsane.

sau khi ngồi, liền rửa chân.
Nisajja pāde pakkhālesi.

Các Tỷ-kheo-ni ấy sau khi đảnh lễ Tôn giả Nandaka, liền ngồi xuống một bên.
Tāpi kho bhikkhuniyo āyasmantaṁ nandakaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu.

Tôn giả Nandaka nói với các Tỷ-kheo-ni đang ngồi một bên:
Ekamantaṁ nisinnā kho tā bhikkhuniyo āyasmā nandako etadavoca:

“Các Hiền tỷ, sẽ có cuộc luận thuyết bằng cách đặt câu hỏi.
“paṭipucchakathā kho, bhaginiyo, bhavissati.

Ở đây, những ai biết, hãy trả lời: ‘Tôi biết’. Những ai không biết, hãy trả lời: ‘Tôi không biết’.
Tattha ājānantīhi: ‘ājānāmā’ tissa vacanīyaṁ, na ājānantīhi: ‘na ājānāmā’ tissa vacanīyaṁ.

Nếu có ai nghi ngờ hay nghi hoặc, ở đây, ta cần được hỏi như sau: ‘Thưa Tôn giả, sự việc này là thế nào? Ý nghĩa việc này là gì’?”
Yassā vā panassa kaṅkhā vā vimati vā ahameva tattha paṭipucchitabbo: ‘idaṁ, bhante, kathaṁ; imassa kvattho’”ti?

“Thưa Tôn giả, cho đến đây, chúng con rất hoan hỷ và thỏa mãn với Tôn giả Nandaka, vì rằng Tôn giả đã mời chúng con (hỏi)”.
“Ettakenapi mayaṁ, bhante, ayyassa nandakassa attamanā abhiraddhā yaṁ no ayyo nandako pavāretī”ti.

“Các Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào? Mắt là thường hay vô thường?”
“Taṁ kiṁ maññatha, bhaginiyo, cakkhu niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”.
“Aniccaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, là khổ.”
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi xem cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, Tôn giả.”
“No hetaṁ, bhante”.

“Các Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññatha, bhaginiyo,

Tai là thường hay vô thường?”
sotaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường …
“Aniccaṁ, bhante …pe…

Mũi là thường hay vô thường?”
ghānaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường ….
“Aniccaṁ, bhante” …

“Lưỡi là thường hay vô thường?”
“jivhā niccā vā aniccā vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường” …
“Aniccā, bhante” …

“Thân là thường hay vô thường”?
“kāyo nicco vā anicco vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường” …
“Anicco, bhante” …

“Ý là thường hay vô thường?”
“mano nicco vā anicco vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”.
“Anicco, bhante”.

“Cái gì vô thường, là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, là khổ”.
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Trước đây, thưa Tôn giả, chúng con đã khéo thấy như chơn, với chánh trí tuệ rằng: ‘Sáu nội xứ này là vô thường’.”
“Pubbeva no etaṁ, bhante, yathābhūtaṁ sammappaññāya sudiṭṭhaṁ: ‘itipime cha ajjhattikā āyatanā aniccā’”ti.

“Lành thay, lành thay, các Hiền tỷ!
“Sādhu sādhu, bhaginiyo.

Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn, với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử.
Evañhetaṁ, bhaginiyo, hoti ariyasāvakassa yathābhūtaṁ sammappaññāya passato.

Chư Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?”
Taṁ kiṁ maññatha, bhaginiyo, rūpā niccā vā aniccā vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”.
“Aniccā, bhante”.

“Cái gì vô thường, là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, là khổ”.
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, Tôn giả”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Chư Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào?
“Taṁ kiṁ maññatha, bhaginiyo,

Tiếng là thường hay vô thường?”
saddā niccā vā aniccā vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường …
“Aniccā, bhante …pe…

Hương là thường hay vô thường?”
gandhā niccā vā aniccā vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”…
“Aniccā, bhante” …

“Vị là thường hay vô thường?”
“rasā niccā vā aniccā vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”…
“Aniccā, bhante” …

“Xúc là thường hay vô thường?”
“phoṭṭhabbā niccā vā aniccā vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”…
“Aniccā, bhante” …

“Pháp là thường hay vô thường?”
“dhammā niccā vā aniccā vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”.
“Aniccā, bhante”.

“Cái gì vô thường là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, là khổ”.
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Trước đây, thưa Tôn giả, chúng con đã khéo thấy như chơn, với chánh trí tuệ rằng: ‘Sáu ngoại xứ này là vô thường’.”
“Pubbeva no etaṁ, bhante, yathābhūtaṁ sammappaññāya sudiṭṭhaṁ: ‘itipime cha bāhirā āyatanā aniccā’”ti.

“Lành thay, lành thay, các Hiền tỷ!
“Sādhu sādhu, bhaginiyo.

Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn, với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử.
Evañhetaṁ, bhaginiyo, hoti ariyasāvakassa yathābhūtaṁ sammappaññāya passato.

Chư Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññatha, bhaginiyo,

Nhãn thức là thường hay vô thường?”
cakkhuviññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”.
“Aniccaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, là khổ.”
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, Tôn giả”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Này các Hiền tỷ, nhĩ thức là thường hay vô thường?”
“Taṁ kiṁ maññatha, bhaginiyo, sotaviññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”.
“Aniccaṁ, bhante …pe…

Tỷ thức là thường hay vô thường?”
ghānaviññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”…
“Aniccaṁ, bhante” …

“Thiệt thức là thường hay vô thường?”
“jivhāviññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”…
“Aniccaṁ, bhante” …

“Thân thức là thường hay vô thường?”
“kāyaviññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”…
“Aniccaṁ, bhante” …

“Ý thức là thường hay vô thường?”
“manoviññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”.
“Aniccaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vāti”?

“Thưa Tôn giả, là khổ.”
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Trước đây, thưa Tôn giả, chúng con đã khéo thấy như chơn, với chánh trí tuệ rằng: ‘Sáu thức thân này là vô thường’.”
“Pubbeva no etaṁ, bhante, yathābhūtaṁ sammappaññāya sudiṭṭhaṁ: ‘itipime cha viññāṇakāyā aniccā’”ti.

“Lành thay, lành thay, chư Hiền tỷ!
“Sādhu sādhu, bhaginiyo.

Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn, với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử.
Evañhetaṁ, bhaginiyo, hoti ariyasāvakassa yathābhūtaṁ sammappaññāya passato.

Ví như, chư Hiền tỷ, một ngọn đèn dầu được đốt cháy; dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; bấc là vô thường, chịu sự biến hoại; ngọn lửa là vô thường, chịu sự biến hoại; ánh sáng là vô thường, chịu sự biến hoại.
Seyyathāpi, bhaginiyo, telappadīpassa jhāyato telampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, vaṭṭipi aniccā vipariṇāmadhammā, accipi aniccā vipariṇāmadhammā, ābhāpi aniccā vipariṇāmadhammā.

Chư Hiền tỷ, nếu có ai nói rằng:
Yo nu kho, bhaginiyo, evaṁ vadeyya:

‘Ngọn đèn dầu này được đốt cháy; dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; bấc là vô thường, chịu sự biến hoại; ngọn lửa là vô thường, chịu sự biến hoại;
‘amussa telappadīpassa jhāyato telampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, vaṭṭipi aniccā vipariṇāmadhammā, accipi aniccā vipariṇāmadhammā;

nhưng ánh sáng ấy là thường còn, thường trú, thường hằng không chịu sự biến hoại’;
yā ca khvāssa ābhā sā niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā’ti;

chư Hiền tỷ, nói như vậy là có nói chân chánh không?”
sammā nu kho so, bhaginiyo, vadamāno vadeyyā”ti?

“Thưa không vậy, Tôn giả”. “Vì sao vậy? “
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Thưa Tôn giả, ngọn đèn dầu này được đốt cháy; dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; bấc cũng là vô thường, chịu sự biến hoại; ngọn lửa cũng là vô thường, chịu sự biến hoại.
“Amussa hi, bhante, telappadīpassa jhāyato telampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, vaṭṭipi aniccā vipariṇāmadhammā, accipi aniccā vipariṇāmadhammā;

Còn nói gì đến ánh sáng, cũng là vô thường, chịu sự biến hoại!”
pagevassa ābhā aniccā vipariṇāmadhammā”ti.

“Như vậy là phải, này các Hiền tỷ! Nếu có ai nói như sau:
“Evameva kho, bhaginiyo, yo nu kho evaṁ vadeyya:

‘Sáu ngoại xứ này là vô thường, và do duyên sáu ngoại xứ này, tôi có cảm thọ, lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy là thường còn, thường trú, thường hằng, không chịu sự biến hoại’;
‘cha khome ajjhattikā āyatanā aniccā; yañca kho cha ajjhattike āyatane paṭicca paṭisaṁvedeti sukhaṁ vā dukkhaṁ vā adukkhamasukhaṁ vā taṁ niccaṁ dhuvaṁ sassataṁ avipariṇāmadhamman’ti;

này các Hiền tỷ, người ấy có nói một cách chân chánh không?”
sammā nu kho so, bhaginiyo, vadamāno vadeyyā”ti?

“Thưa không, thưa Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Thưa Tôn giả, do duyên cái này, cái này cảm thọ như thế này, như thế này khởi lên.
“Tajjaṁ tajjaṁ, bhante, paccayaṁ paṭicca tajjā tajjā vedanā uppajjanti.

Do diệt các duyên như thế này, như thế này, các cảm thọ như thế này, như thế này cũng biến diệt”.
Tajjassa tajjassa paccayassa nirodhā tajjā tajjā vedanā nirujjhantī”ti.

“Lành thay, lành thay, các Hiền tỷ!
“Sādhu sādhu, bhaginiyo.

Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử.
Evañhetaṁ, bhaginiyo, hoti ariyasāvakassa yathābhūtaṁ sammappaññāya passato.

Ví như, này các Hiền tỷ, có cây to lớn đứng thẳng, có lõi cây, với rễ vô thường, chịu sự biến hoại, với thân cây vô thường, chịu sự biến hoại, với cành lá vô thường, chịu sự biến hoại, với bóng cây vô thường, chịu sự biến hoại.
Seyyathāpi, bhaginiyo, mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato mūlampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, khandhopi anicco vipariṇāmadhammo, sākhāpalāsampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, chāyāpi aniccā vipariṇāmadhammā.

Nếu có người nói như sau:
Yo nu kho, bhaginiyo, evaṁ vadeyya:

‘Có cây lớn đứng thẳng có lõi cây này, với rễ vô thường, chịu sự biến hoại, với thân cây vô thường, chịu sự biến hoại, với cành lá vô thường, chịu sự biến hoại, nhưng bóng mát của cây ấy là thường còn, thường trú, thường hằng, không chịu biến hoại’;
‘amussa mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato mūlampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, khandhopi anicco vipariṇāmadhammo, sākhāpalāsampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, yā ca khvāssa chāyā sā niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā’ti;

này các Hiền tỷ, người ấy có nói một cách chân chánh không?”
sammā nu kho so, bhaginiyo, vadamāno vadeyyā”ti?

“Thưa không, thưa Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Thưa Tôn giả, cây to lớn đứng thẳng có lõi cây này, có rễ vô thường, chịu sự biến hoại, có thân cây vô thường; chịu sự biến hoại, có cành lá vô thường, chịu sự biến hoại.
“Amussa hi, bhante, mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato mūlampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, khandhopi anicco vipariṇāmadhammo, sākhāpalāsampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ;

Còn nói gì đến bóng mát, cũng là vô thường, chịu sự biến hoại!”
pagevassa chāyā aniccā vipariṇāmadhammā”ti.

“Như vậy là phải, này chư Hiền tỷ! Nếu có ai nói như sau:
“Evameva kho, bhaginiyo, yo nu kho evaṁ vadeyya:

‘Sáu nội xứ này là vô thường, và do duyên sáu ngoại xứ này tôi cảm thọ, lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy là thường còn, thường trú, thường hằng, không chịu sự biến hoại’;
‘cha khome bāhirā āyatanā aniccā. Yañca kho cha bāhire āyatane paṭicca paṭisaṁvedeti sukhaṁ vā dukkhaṁ vā adukkhamasukhaṁ vā taṁ niccaṁ dhuvaṁ sassataṁ avipariṇāmadhamman’ti;

này các Hiền tỷ, người ấy có nói chân chánh không?”
sammā nu kho so, bhaginiyo, vadamāno vadeyyā”ti?

“Thưa không, thưa Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Thưa Tôn giả, do duyên cái này, cái này, cảm thọ như thế này, như thế này khởi lên.
“Tajjaṁ tajjaṁ, bhante, paccayaṁ paṭicca tajjā tajjā vedanā uppajjanti.

Do diệt các duyên như thế này, như thế này, các cảm thọ như thế này, như thế này cũng biến diệt”.
Tajjassa tajjassa paccayassa nirodhā tajjā tajjā vedanā nirujjhantī”ti.

“Lành thay, lành thay, chư Hiền tỷ!
“Sādhu sādhu, bhaginiyo.

Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử.
Evañhetaṁ, bhaginiyo, hoti ariyasāvakassa yathābhūtaṁ sammappaññāya passato.

Ví như, này các Hiền tỷ, một người đồ tể giết bò thiện xảo hay người đệ tử; sau khi giết con bò, cắt con bò với con dao sắc bén của người đồ tể giết bò, mà không hư hại phần thịt ở trong, không hư hại phần da ngoài, rồi với con dao sắc bén của người đồ tể giết bò, cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt mọi dây thịt phía trong; dây gân phía trong, dây khớp xương phía trong; sau khi cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt và sau khi lột da ngoài, lại bao trùm con bò ấy với chính da bò ấy rồi nói:
Seyyathāpi, bhaginiyo, dakkho goghātako vā goghātakantevāsī vā gāviṁ vadhitvā tiṇhena govikantanena gāviṁ saṅkanteyya anupahacca antaraṁ maṁsakāyaṁ anupahacca bāhiraṁ cammakāyaṁ. Yaṁ yadeva tattha antarā vilimaṁsaṁ antarā nhāru antarā bandhanaṁ taṁ tadeva tiṇhena govikantanena sañchindeyya saṅkanteyya sampakanteyya samparikanteyya. Sañchinditvā saṅkantitvā sampakantitvā samparikantitvā vidhunitvā bāhiraṁ cammakāyaṁ teneva cammena taṁ gāviṁ paṭicchādetvā evaṁ vadeyya:

‘Con bò này đã được dính liền với da này như trước’;
‘tathevāyaṁ gāvī saṁyuttā imināva cammenā’ti;

này các Hiền tỷ, nói như vậy có nói một cách chơn chánh không?”
sammā nu kho so, bhaginiyo, vadamāno vadeyyā”ti?

“Thưa không, thưa Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Dầu cho, thưa Tôn giả, người đồ tể giết bò thiện xảo ấy hay người đệ tử sau khi giết con bò … lại bao trùm con bò ấy với chính da bò ấy lại có thể nói như sau:
“Amu hi, bhante, dakkho goghātako vā goghātakantevāsī vā gāviṁ vadhitvā tiṇhena govikantanena gāviṁ saṅkanteyya anupahacca antaraṁ maṁsakāyaṁ anupahacca bāhiraṁ cammakāyaṁ. Yaṁ yadeva tattha antarā vilimaṁsaṁ antarā nhāru antarā bandhanaṁ taṁ tadeva tiṇhena govikantanena sañchindeyya saṅkanteyya sampakanteyya samparikanteyya. Sañchinditvā saṅkantitvā sampakantitvā samparikantitvā vidhunitvā bāhiraṁ cammakāyaṁ teneva cammena taṁ gāviṁ paṭicchādetvā kiñcāpi so evaṁ vadeyya:

‘Con bò này đã được dính liền với da này như trước’,
‘tathevāyaṁ gāvī saṁyuttā imināva cammenā’ti;

con bò này đã bị lột ra khỏi da ấy”.
atha kho sā gāvī visaṁyuttā teneva cammenā”ti.

“Ta làm ví dụ này, này các Hiền tỷ, là để nêu rõ ý nghĩa. Ở đây, ý nghĩa này như sau;
“Upamā kho me ayaṁ, bhaginiyo, katā atthassa viññāpanāya. Ayamevettha attho;

Chư Hiền tỷ, ‘thịt ở trong’ là đồng nghĩa với sáu nội xứ.
‘antarā maṁsakāyo’ti kho, bhaginiyo, channetaṁ ajjhattikānaṁ āyatanānaṁ adhivacanaṁ;

Chư Hiền tỷ, ‘da ở ngoài’ là đồng nghĩa với sáu ngoại xứ,
‘bāhiro cammakāyo’ti kho, bhaginiyo, channetaṁ bāhirānaṁ āyatanānaṁ adhivacanaṁ;

Chư Hiền tỷ, ‘dây thịt phía trong, dây gân phía trong, dây khớp xương phía trong’ là đồng nghĩa với dục hỷ và tham.
‘antarā vilimaṁsaṁ, antarā nhāru, antarā bandhanan’ti kho, bhaginiyo, nandīrāgassetaṁ adhivacanaṁ;

Chư Hiền tỷ, ‘con dao đồ tể giết bò sắc bén’ là đồng nghĩa với Thánh trí tuệ.
‘tiṇhaṁ govikantanan’ti kho, bhaginiyo, ariyāyetaṁ paññāya adhivacanaṁ;

Với Thánh trí tuệ này cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt nội phiền não, nội kiết sử, nội triền phược.
yāyaṁ ariyā paññā antarā kilesaṁ antarā saṁyojanaṁ antarā bandhanaṁ sañchindati saṅkantati sampakantati samparikantati.

Chư Hiền tỷ, có bảy giác chi, do tu tập, làm cho sung mãn bảy giác chi này, vị Tỷ-kheo với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự mình chứng tri ngay trong hiện tại với thượng trí; chứng đạt và an trú, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Thế nào là bảy?
Satta kho panime, bhaginiyo, bojjhaṅgā, yesaṁ bhāvitattā bahulīkatattā bhikkhu āsavānaṁ khayā anāsavaṁ cetovimuttiṁ paññāvimuttiṁ diṭṭheva dhamme sayaṁ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati. Katame satta?

Ở đây, chư Hiền tỷ, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, hướng đến từ bỏ;
Idha, bhaginiyo, bhikkhu satisambojjhaṅgaṁ bhāveti vivekanissitaṁ virāganissitaṁ nirodhanissitaṁ vossaggapariṇāmiṁ.

tu tập trạch pháp giác chi, …
Dhammavicayasambojjhaṅgaṁ bhāveti …pe…

tu tập tinh tấn giác chi, …
vīriyasambojjhaṅgaṁ bhāveti …

tu tập hỷ giác chi, …
pītisambojjhaṅgaṁ bhāveti …

tu tập khinh an giác chi, …
passaddhisambojjhaṅgaṁ bhāveti …

tu tập định giác chi, …
samādhisambojjhaṅgaṁ bhāveti …

tu tập xả giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, hướng đến từ bỏ.
upekkhāsambojjhaṅgaṁ bhāveti vivekanissitaṁ virāganissitaṁ nirodhanissitaṁ vossaggapariṇāmiṁ.

Chư Hiền tỷ, bảy giác chi này, do tu tập, làm cho sung mãn, Tỷ-kheo với sự đoạn tận các lậu hoặc, sau khi tự mình chứng tri ngay trong hiện tại, với thượng trí chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.”
Ime kho, bhaginiyo, satta bojjhaṅgā, yesaṁ bhāvitattā bahulīkatattā bhikkhu āsavānaṁ khayā anāsavaṁ cetovimuttiṁ paññāvimuttiṁ diṭṭheva dhamme sayaṁ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī”ti.

Rồi Tôn giả Nandaka, sau khi giáo giới các Tỷ-kheo ni ấy với lời giáo giới, liền cho giải tán: “Chư Hiền tỷ, hãy đi về, giờ đã đến rồi”.
Atha kho āyasmā nandako tā bhikkhuniyo iminā ovādena ovaditvā uyyojesi: “gacchatha, bhaginiyo; kālo”ti.

Rồi các Tỷ-kheo ni ấy, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Nandaka dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tôn giả Nandaka, thân phía hữu hướng về Tôn giả, rồi đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo-ni ấy đang đứng một bên:
Atha kho tā bhikkhuniyo āyasmato nandakassa bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā āyasmantaṁ nandakaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhaṁsu. Ekamantaṁ ṭhitā kho tā bhikkhuniyo bhagavā etadavoca:

“Này các Tỷ-kheo-ni, hãy đi. Giờ đã đến rồi”.
“gacchatha, bhikkhuniyo; kālo”ti.

Rồi các Tỷ-kheo-ni ấy, sau khi đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Atha kho tā bhikkhuniyo bhagavantaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā pakkamiṁsu.

Rồi Thế Tôn, sau khi các Tỷ-kheo-ni ấy ra đi không bao lâu, gọi các vị Tỷ-kheo và nói:
Atha kho bhagavā acirapakkantīsu tāsu bhikkhunīsu bhikkhū āmantesi:

“Này các Tỷ-kheo, ví như vào ngày Bố-tát, ngày mười bốn, quần chúng không có nghi ngờ hay nghi hoặc rằng mặt trăng là không tròn hay mặt trăng là tròn vì khi ấy mặt trăng chưa tròn;
“seyyathāpi, bhikkhave, tadahuposathe cātuddase na hoti bahuno janassa kaṅkhā vā vimati vā: ‘ūno nu kho cando, puṇṇo nu kho cando’ti, atha kho ūno cando tveva hoti.

cũng vậy, này các Tỷ-kheo, dầu cho các Tỷ-kheo-ni ấy hoan hỷ với bài thuyết pháp của Nandaka, nhưng tâm trí của họ chưa được thỏa mãn”.
Evameva kho, bhikkhave, tā bhikkhuniyo nandakassa dhammadesanāya attamanā honti no ca kho paripuṇṇasaṅkappā”ti.

Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Nandaka:
Atha kho bhagavā āyasmantaṁ nandakaṁ āmantesi:

“Vậy này Nandaka, ngày mai, Ông sẽ giáo giới cho các Tỷ-kheo-ni ấy với bài giáo giới”.
“tena hi tvaṁ, nandaka, svepi tā bhikkhuniyo tenevovādena ovadeyyāsī”ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Tôn giả Nandaka vâng đáp Thế Tôn.
“Evaṁ, bhante”ti kho āyasmā nandako bhagavato paccassosi.

Rồi Tôn giả Nandaka, sau khi đêm ấy đã mãn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sāvatthī (Xá-vệ) để khất thực.
Atha kho āyasmā nandako tassā rattiyā accayena pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṁ piṇḍāya pāvisi.

Sau khi đi khất thực ở Sāvatthī xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, tự thân một mình đi đến Rajarama. Các vị Tỷ-kheo-ni ấy thấy Tôn giả Nandaka từ xa đi lại; sau khi thấy, liền sửa soạn chỗ ngồi và sắp đặt nước rửa chân. Tôn giả Nandaka ngồi trên chỗ đã soạn sẵn; sau khi ngồi, liền rửa chân. Các vị Tỷ-kheo-ni ấy đảnh lễ Tôn giả Nandaka rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Nandaka nói với các Tỷ-kheo-ni ấy đang ngồi một bên:
Sāvatthiyaṁ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṁ piṇḍapātapaṭikkanto attadutiyo yena rājakārāmo tenupasaṅkami. Addasaṁsu kho tā bhikkhuniyo āyasmantaṁ nandakaṁ dūratova āgacchantaṁ. Disvāna āsanaṁ paññāpesuṁ, udakañca pādānaṁ upaṭṭhapesuṁ. Nisīdi kho āyasmā nandako paññatte āsane. Nisajja pāde pakkhālesi. Tāpi kho bhikkhuniyo āyasmantaṁ nandakaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Ekamantaṁ nisinnā kho tā bhikkhuniyo āyasmā nandako etadavoca:

“Các Hiền tỷ, sẽ có cuộc luận thuyết bằng cách đặt câu hỏi.
“paṭipucchakathā kho, bhaginiyo, bhavissati.

Ở đây, những ai biết hãy trả lời: ‘Tôi biết’. Những ai không biết, hãy trả lời ‘Tôi không biết’.
Tattha ājānantīhi ‘ājānāmā’ tissa vacanīyaṁ, na ājānantīhi ‘na ājānāmā’ tissa vacanīyaṁ.

Nếu ai có nghi ngờ hay do dự, ở đây, ta cần được hỏi như sau: ‘Thưa Tôn giả, sự việc này là thế nào? Ý nghĩa việc này là gì?’”
Yassā vā panassa kaṅkhā vā vimati vā, ahameva tattha paṭipucchitabbo: ‘idaṁ, bhante, kathaṁ; imassa kvattho’”ti.

“Thưa Tôn giả, cho đến đây, chúng con rất hoan hỷ và thỏa mãn với Tôn giả Nandaka, vì rằng Tôn giả đã mời chúng con (hỏi)!”
“Ettakenapi mayaṁ, bhante, ayyassa nandakassa attamanā abhiraddhā yaṁ no ayyo nandako pavāretī”ti.

“Chư Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào? Mắt là thường hay vô thường?
“Taṁ kiṁ maññatha, bhaginiyo, cakkhu niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”.
“Aniccaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, là khổ.”
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi xem cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, Tôn giả”.
“No hetaṁ, bhante”.

“Các Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào? Tai là thường hay vô thường?”
“Taṁ kiṁ maññatha, bhaginiyo, sotaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”.
“Aniccaṁ, bhante …pe…

Mũi là thường hay vô thường?”
ghānaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”.
“Aniccaṁ, bhante …

Lưỡi là thường hay vô thường?…
jivhā …

Thân là thường hay vô thường?…
kāyo …

Ý là thường hay vô thường?”
mano nicco vā anicco vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường”.
“Anicco, bhante”.

“Cái gì vô thường, là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, là khổ”.
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Trước đây, thưa Tôn giả, chúng con đã khéo thấy như chơn, với chánh trí tuệ rằng: ‘Sáu nội xứ này là vô thường’.”
“Pubbeva no etaṁ, bhante, yathābhūtaṁ sammappaññāya sudiṭṭhaṁ: ‘itipime cha ajjhattikā āyatanā aniccā’”ti.

“Lành thay, lành thay, các Hiền tỷ!
“Sādhu sādhu, bhaginiyo.

Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn, với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử.
Evañhetaṁ, bhaginiyo, hoti ariyasāvakassa yathābhūtaṁ sammappaññāya passato.

Chư Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?”
Taṁ kiṁ maññatha, bhaginiyo, rūpā niccā vā aniccā vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường.”
“Aniccā, bhante”.

“Cái gì vô thường, là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, là khổ.”
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, Tôn giả”.
“No hetaṁ, bhante”.

Chư Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào? Tiếng là thường hay vô thường?”
“Taṁ kiṁ maññatha, bhaginiyo, saddā niccā vā aniccā vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường …
“Aniccā, bhante …pe…

Hương là thường hay vô thường?”
gandhā niccā vā aniccā vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường …
“Aniccā, bhante …

Vị là thường hay vô thường?”
rasā niccā vā aniccā vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường …
“Aniccā, bhante …

Xúc là thường hay vô thường?”
phoṭṭhabbā niccā vā aniccā vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường …
“Aniccā, bhante …

Pháp là thường hay vô thường?”
dhammā niccā vā aniccā vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường.”
“Aniccā, bhante”.

“Cái gì vô thường, là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, là khổ.”
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”.“Taṁ kissa hetu”?

“Trước đây, thưa Tôn giả, chúng con đã khéo thấy như chơn, với chánh trí tuệ rằng: ‘Sáu ngoại xứ này là vô thường’.”
“Pubbeva no etaṁ, bhante, yathābhūtaṁ sammappaññāya sudiṭṭhaṁ: ‘itipime cha bāhirā āyatanā aniccā’”ti.

Lành thay, lành thay, các Hiền tỷ!
“Sādhu sādhu, bhaginiyo.

Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn, với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử.
Evañhetaṁ, bhaginiyo, hoti ariyasāvakassa yathābhūtaṁ sammappaññāya passato.

Chư Hiền tỷ, các Hiền tỷ nghĩ thế nào? Nhãn thức là thường hay vô thường?
Taṁ kiṁ maññatha, bhaginiyo, cakkhuviññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường …
“Aniccaṁ, bhante …pe…

Này các Hiền tỷ, nhĩ thức là thường hay vô thường?”
sotaviññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường …
“Aniccaṁ, bhante …

Tỷ thức là thường hay vô thường?”
ghānaviññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

Thưa Tôn giả, vô thường …
“Aniccaṁ, bhante …

Thiệt thức là thường hay vô thường?”
jivhāviññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường …
“Aniccaṁ, bhante …

Thân thức là thường hay vô thường?”
kāyaviññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường …
“Aniccaṁ, bhante …

Ý thức là thường hay vô thường?”
manoviññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, vô thường.”
“Aniccaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, là khổ hay lạc?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vā”ti?

“Thưa Tôn giả, là khổ”.
“Dukkhaṁ, bhante”.

“Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, thời có hợp lý chăng khi quán cái ấy: ‘Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi’?”
“Yaṁ panāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāmadhammaṁ, kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ: ‘etaṁ mama, esohamasmi, eso me attā’”ti?

“Thưa không vậy, Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Trước đây, thưa Tôn giả, chúng con đã khéo thấy như chơn, với chánh trí tuệ rằng: ‘Sáu thức thân này là vô thường’.”
“Pubbeva no etaṁ, bhante, yathābhūtaṁ sammappaññāya sudiṭṭhaṁ: ‘itipime cha viññāṇakāyā aniccā’”ti.

“Lành thay, lành thay, chư Hiền tỷ!
“Sādhu sādhu, bhaginiyo.

Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn, với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử.
Evañhetaṁ, bhaginiyo, hoti ariyasāvakassa yathābhūtaṁ sammappaññāya passato.

Ví như, chư Hiền tỷ, một ngọn đèn dầu được đốt cháy; dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; bấc là vô thường, chịu sự biến hoại; ngọn lửa là vô thường, chịu sự biến hoại; ánh sáng là vô thường, chịu sự biến hoại. Chư Hiền tỷ, nếu có ai nói rằng:
Seyyathāpi, bhaginiyo, telappadīpassa jhāyato telampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, vaṭṭipi aniccā vipariṇāmadhammā, accipi aniccā vipariṇāmadhammā, ābhāpi aniccā vipariṇāmadhammā. Yo nu kho, bhaginiyo, evaṁ vadeyya:

“Ngọn đèn dầu này được đốt cháy; dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; bấc là vô thường, chịu sự biến hoại; ngọn lửa là vô thường, chịu sự biến hoại; nhưng ánh sáng ấy là thường còn, thường trú, thường hằng không chịu sự biến hoại”;
‘amussa telappadīpassa jhāyato telampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, vaṭṭipi aniccā vipariṇāmadhammā, accipi aniccā vipariṇāmadhammā; yā ca khvāssa ābhā sā niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā’ti;

chư Hiền tỷ, nói như vậy là có nói chân chánh không?”
sammā nu kho so, bhaginiyo, vadamāno vadeyyā”ti?

“Thưa không vậy, Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Thưa Tôn giả, ngọn đèn dầu này được đốt cháy; dầu là vô thường, chịu sự biến hoại; bấc cũng là vô thường, chịu sự biến hoại; ngọn lửa cũng là vô thường, chịu sự biến hoại. Còn nói gì đến ánh sáng, cũng là vô thường, chịu sự biến hoại!”
“Amussa hi, bhante, telappadīpassa jhāyato telampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, vaṭṭipi aniccā vipariṇāmadhammā, accipi aniccā vipariṇāmadhammā; pagevassa ābhā aniccā vipariṇāmadhammā”ti.

“Như vậy là phải, này các Hiền tỷ! Nếu có ai nói như sau:
“Evameva kho, bhaginiyo, yo nu kho evaṁ vadeyya:

‘Sáu ngoại xứ này là vô thường, và do duyên sáu ngoại xứ này, tôi có cảm thọ, lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy là thường còn, thường trú, thường hằng, không chịu sự biến hoại’;
‘cha khome ajjhattikā āyatanā aniccā. Yañca kho cha ajjhattike āyatane paṭicca paṭisaṁvedeti sukhaṁ vā dukkhaṁ vā adukkhamasukhaṁ vā taṁ niccaṁ dhuvaṁ sassataṁ avipariṇāmadhamman’ti;

này các Hiền tỷ, người ấy có nói một cách chân chánh không?”
sammā nu kho so, bhaginiyo, vadamāno vadeyyā”ti?

“Thưa không, thưa Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Thưa Tôn giả, do duyên cái này, cái này cảm thọ như thế này, như thế này khởi lên.
“Tajjaṁ tajjaṁ, bhante, paccayaṁ paṭicca tajjā tajjā vedanā uppajjanti.

Do diệt các duyên như thế này, như thế này, các cảm thọ như thế này, như thế này cũng biến diệt”.
Tajjassa tajjassa paccayassa nirodhā tajjā tajjā vedanā nirujjhantī”ti.

“Lành thay, lành thay, các Hiền tỷ!
“Sādhu sādhu, bhaginiyo.

Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử.
Evañhetaṁ, bhaginiyo, hoti ariyasāvakassa yathābhūtaṁ sammappaññāya passato.

Ví như, này các Hiền tỷ, có cây to lớn đứng thẳng, có lõi cây, với rễ vô thường, chịu sự biến hoại, với thân cây vô thường, chịu sự biến hoại, với cành lá vô thường, chịu sự biến hoại, với bóng cây vô thường, chịu sự biến hoại. Nếu có người nói như sau:
Seyyathāpi, bhaginiyo, mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato mūlampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, khandhopi anicco vipariṇāmadhammo, sākhāpalāsampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, chāyāpi aniccā vipariṇāmadhammā. Yo nu kho, bhaginiyo, evaṁ vadeyya:

‘Có cây lớn đứng thẳng có lõi cây này, với rễ vô thường, chịu sự biến hoại, với thân cây vô thường, chịu sự biến hoại, với cành lá vô thường, chịu sự biến hoại, nhưng bóng mát của cây ấy là thường còn, thường trú, thường hằng, không chịu biến hoại’;
‘amussa mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato mūlampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, khandhopi anicco vipariṇāmadhammo, sākhāpalāsampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ; yā ca khvāssa chāyā sā niccā dhuvā sassatā avipariṇāmadhammā’ti;

này các Hiền tỷ, người ấy có nói một cách chân chánh không?”
sammā nu kho so bhaginiyo, vadamāno vadeyyā”ti?

“Thưa không, thưa Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Thưa Tôn giả, cây to lớn đứng thẳng có lõi cây này, có rễ vô thường, chịu sự biến hoại, có thân cây vô thường; chịu sự biến hoại, có cành lá vô thường, chịu sự biến hoại. Còn nói gì đến bóng mát, cũng là vô thường, chịu sự biến hoại!”
“Amussa hi, bhante, mahato rukkhassa tiṭṭhato sāravato mūlampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ, khandhopi anicco vipariṇāmadhammo, sākhāpalāsampi aniccaṁ vipariṇāmadhammaṁ; pagevassa chāyā aniccā vipariṇāmadhammā”ti.

“Như vậy là phải, này chư Hiền tỷ! Nếu có ai nói như sau:
“Evameva kho, bhaginiyo, yo nu kho evaṁ vadeyya:

‘Sáu nội xứ này là vô thường, và do duyên sáu ngoại xứ này tôi cảm thọ, lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ; cảm thọ ấy là thường còn, thường trú, thường hằng, không chịu sự biến hoại’;
‘cha khome bāhirā āyatanā aniccā. Yañca kho bāhire āyatane paṭicca paṭisaṁvedeti sukhaṁ vā dukkhaṁ vā adukkhamasukhaṁ vā taṁ niccaṁ dhuvaṁ sassataṁ avipariṇāmadhamman’ti;

này các Hiền tỷ, người ấy có nói chân chánh không?”
sammā nu kho so, bhaginiyo, vadamāno vadeyyā”ti?

“Thưa không, thưa Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Thưa Tôn giả, do duyên cái này, cái này, cảm thọ như thế này, như thế này khởi lên. Do diệt các duyên như thế này, như thế này, các cảm thọ như thế này, như thế này cũng biến diệt”.
“Tajjaṁ tajjaṁ, bhante, paccayaṁ paṭicca tajjā tajjā vedanā uppajjanti. Tajjassa tajjassa paccayassa nirodhā tajjā tajjā vedanā nirujjhantī”ti.

“Lành thay, lành thay, chư Hiền tỷ!
“Sādhu sādhu, bhaginiyo.

Chính phải là như vậy, là cái nhìn như chơn với chánh trí tuệ của vị Thánh đệ tử.
Evañhetaṁ, bhaginiyo, hoti ariyasāvakassa yathābhūtaṁ sammappaññāya passato.

Ví như, này các Hiền tỷ, một người đồ tể giết bò thiện xảo hay người đệ tử; sau khi giết con bò, cắt con bò với con dao sắc bén của người đồ tể giết bò, mà không hư hại phần thịt ở trong, không hư hại phần da ngoài, rồi với con dao sắc bén của người đồ tể giết bò, cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt mọi dây thịt phía trong; dây gân phía trong, dây khớp xương phía trong; sau khi cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt và sau khi lột da ngoài, lại bao trùm con bò ấy với chính da bò ấy rồi nói:
Seyyathāpi, bhaginiyo, dakkho goghātako vā goghātakantevāsī vā gāviṁ vadhitvā tiṇhena govikantanena gāviṁ saṅkanteyya anupahacca antaraṁ maṁsakāyaṁ anupahacca bāhiraṁ cammakāyaṁ. Yaṁ yadeva tattha antarā vilimaṁsaṁ antarā nhāru antarā bandhanaṁ taṁ tadeva tiṇhena govikantanena sañchindeyya saṅkanteyya sampakanteyya samparikanteyya. Sañchinditvā saṅkantitvā sampakantitvā samparikantitvā vidhunitvā bāhiraṁ cammakāyaṁ teneva cammena taṁ gāviṁ paṭicchādetvā evaṁ vadeyya:

‘Con bò này đã được dính liền với da này như trước’;
‘tathevāyaṁ gāvī saṁyuttā imināva cammenā’ti;

này các Hiền tỷ, nói như vậy có nói một cách chơn chánh không?”
sammā nu kho so, bhaginiyo, vadamāno vadeyyā”ti?

“Thưa không, thưa Tôn giả”. “Vì sao vậy?”
“No hetaṁ, bhante”. “Taṁ kissa hetu”?

“Dầu cho, thưa Tôn giả, người đồ tể giết bò thiện xảo ấy hay người đệ tử sau khi giết con bò … lại bao trùm con bò ấy với chính da bò ấy lại có thể nói như sau:
“Amu hi, bhante, dakkho goghātako vā goghātakantevāsī vā gāviṁ vadhitvā tiṇhena govikantanena gāviṁ saṅkanteyya anupahacca antaraṁ maṁsakāyaṁ anupahacca bāhiraṁ cammakāyaṁ. Yaṁ yadeva tattha antarā vilimaṁsaṁ antarā nhāru antarā bandhanaṁ taṁ tadeva tiṇhena govikantanena sañchindeyya saṅkanteyya sampakanteyya samparikanteyya. Sañchinditvā saṅkantitvā sampakantitvā samparikantitvā vidhunitvā bāhiraṁ cammakāyaṁ teneva cammena taṁ gāviṁ paṭicchādetvā kiñcāpi so evaṁ vadeyya:

‘Con bò này đã được dính liền với da này như trước’, con bò này đã bị lột ra khỏi da ấy.”
‘tathevāyaṁ gāvī saṁyuttā imināva cammenā’ti; atha kho sā gāvī visaṁyuttā teneva cammenā”ti.

“Ta làm ví dụ này, này các Hiền tỷ, là để nêu rõ ý nghĩa. Ở đây, ý nghĩa này như sau:
“Upamā kho me ayaṁ, bhaginiyo, katā atthassa viññāpanāya ayamevettha attho.

Chư Hiền tỷ, ‘thịt ở trong’ là đồng nghĩa với sáu nội xứ.
‘Antarā maṁsakāyo’ti kho, bhaginiyo, channetaṁ ajjhattikānaṁ āyatanānaṁ adhivacanaṁ;

Chư Hiền tỷ, ‘da ở ngoài’ là đồng nghĩa với sáu ngoại xứ,
‘bāhiro cammakāyo’ti kho, bhaginiyo, channetaṁ bāhirānaṁ āyatanānaṁ adhivacanaṁ;

Chư Hiền tỷ, ‘dây thịt phía trong, dây gân phía trong, dây khớp xương phía trong’ là đồng nghĩa với dục hỷ và tham.
‘antarā vilimaṁsaṁ antarā nhāru antarā bandhanan’ti kho, bhaginiyo, nandīrāgassetaṁ adhivacanaṁ;

Chư Hiền tỷ, ‘con dao đồ tể giết bò sắc bén’ là đồng nghĩa với Thánh trí tuệ.
‘tiṇhaṁ govikantanan’ti kho, bhaginiyo, ariyāyetaṁ paññāya adhivacanaṁ;

Với Thánh trí tuệ này cắt đứt, cắt đoạn, cắt tiệt nội phiền não, nội kiết sử, nội triền phược.
yāyaṁ ariyā paññā antarā kilesaṁ antarā saṁyojanaṁ antarā bandhanaṁ sañchindati saṅkantati sampakantati samparikantati.

Chư Hiền tỷ, có bảy giác chi, do tu tập, làm cho sung mãn bảy giác chi này, vị Tỷ-kheo với sự đoạn tận các lậu hoặc, tự mình chứng tri ngay trong hiện tại với thượng trí; chứng đạt và an trú, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Thế nào là bảy?
Satta kho panime, bhaginiyo, bojjhaṅgā, yesaṁ bhāvitattā bahulīkatattā bhikkhu āsavānaṁ khayā anāsavaṁ cetovimuttiṁ paññāvimuttiṁ diṭṭheva dhamme sayaṁ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati. Katame satta?

Ở đây, chư Hiền tỷ, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, hướng đến từ bỏ;
Idha, bhaginiyo, bhikkhu satisambojjhaṅgaṁ bhāveti vivekanissitaṁ virāganissitaṁ nirodhanissitaṁ vossaggapariṇāmiṁ.

tu tập trạch pháp giác chi, …
Dhammavicayasambojjhaṅgaṁ bhāveti …pe…

tu tập tinh tấn giác chi, …
vīriyasambojjhaṅgaṁ bhāveti …

tu tập hỷ giác chi, …
pītisambojjhaṅgaṁ bhāveti …

tu tập khinh an giác chi, …
passaddhisambojjhaṅgaṁ bhāveti …

tu tập định giác chi, …
samādhisambojjhaṅgaṁ bhāveti …

tu tập xả giác chi, y chỉ viễn ly, y chỉ ly tham, y chỉ đoạn diệt, hướng đến từ bỏ.
upekkhāsambojjhaṅgaṁ bhāveti vivekanissitaṁ virāganissitaṁ nirodhanissitaṁ vossaggapariṇāmiṁ.

Chư Hiền tỷ, bảy giác chi này, do tu tập, làm cho sung mãn, Tỷ-kheo với sự đoạn tận các lậu hoặc, sau khi tự mình chứng tri ngay trong hiện tại, với thượng trí chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát”.
Ime kho, bhaginiyo, satta bojjhaṅgā yesaṁ bhāvitattā bahulīkatattā bhikkhu āsavānaṁ khayā anāsavaṁ cetovimuttiṁ paññāvimuttiṁ diṭṭheva dhamme sayaṁ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī”ti.

Rồi Tôn giả Nandaka, sau khi giáo giới các Tỷ-kheo ni ấy với lời giáo giới, liền cho giải tán: “Chư Hiền tỷ, hãy đi về, giờ đã đến rồi”.
Atha kho āyasmā nandako tā bhikkhuniyo iminā ovādena ovaditvā uyyojesi: “gacchatha, bhaginiyo; kālo”ti.

Rồi các Tỷ-kheo ni ấy, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Nandaka dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tôn giả Nandaka, thân phía hữu hướng về Tôn giả, rồi đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo-ni ấy đang đứng một bên:
Atha kho tā bhikkhuniyo āyasmato nandakassa bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā āyasmantaṁ nandakaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhaṁsu. Ekamantaṁ ṭhitā kho tā bhikkhuniyo bhagavā etadavoca:

“Này các Tỷ-kheo-ni, hãy đi. Giờ đã đến rồi”.
“gacchatha, bhikkhuniyo; kālo”ti.

Thế Tôn, sau khi các Tỷ-kheo-ni ấy ra đi không bao lâu, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và nói:
Atha kho tā bhikkhuniyo bhagavantaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā pakkamiṁsu. Atha kho bhagavā acirapakkantīsu tāsu bhikkhunīsu bhikkhū āmantesi:

“Này các Tỷ-kheo, ví như vào ngày Bố-tát, ngày rằm, quần chúng không có nghi ngờ hay phân vân rằng mặt trăng là không tròn hay mặt trăng là tròn, vì khi ấy mặt trăng đã tròn;
“seyyathāpi, bhikkhave, tadahuposathe pannarase na hoti bahuno janassa kaṅkhā vā vimati vā: ‘ūno nu kho cando, puṇṇo nu kho cando’ti, atha kho puṇṇo cando tveva hoti;

cũng vậy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo-ni ấy hoan hỷ với bài thuyết pháp của Tôn giả Ānandaka, và tâm tư của họ được thỏa mãn.
evameva kho, bhikkhave, tā bhikkhuniyo nandakassa dhammadesanāya attamanā ceva paripuṇṇasaṅkappā ca.

Này các Tỷ-kheo, trong năm trăm Tỷ-kheo-ni ấy, Tỷ-kheo-ni cuối cùng chứng được Dự lưu, không còn bị đọa lạc, và chắc chắn đạt đến chánh giác”.
Tāsaṁ, bhikkhave, pañcannaṁ bhikkhunisatānaṁ yā pacchimikā bhikkhunī sā sotāpannā avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyanā”ti.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Idamavoca bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṁ abhinandunti.

Nandakovādasuttaṁ niṭṭhitaṁ catutthaṁ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt