Trường Bộ 19
Dīgha Nikāya 19
Kinh Đại Điển Tôn
Mahāgovindasutta
Như vậy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời Thế Tôn ở tại Vương Xá, núi Linh Thứu.
ekaṁ samayaṁ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate.
Khi đêm đã gần mãn, Pañcasikha (Ngũ Kế), thuộc giòng họ Càn-thát-bà (Gandhabba), với dung mạo đoan chánh, chói sáng toàn vùng núi Linh Thứu, đến tại chỗ Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Pancasikha, thuộc giòng họ Càn-thát-bà bạch Thế Tôn:
Atha kho pañcasikho gandhabbaputto abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṁ gijjhakūṭaṁ pabbataṁ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhito kho pañcasikho gandhabbaputto bhagavantaṁ etadavoca:
Bạch Thế Tôn, những điều con đã tự thân nghe và chấp nhận trước mặt chư Thiên ở Tam thập tam thiên, bạch Thế Tôn con muốn bạch lại Thế Tôn.
“yaṁ kho me, bhante, devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sammukhā sutaṁ sammukhā paṭiggahitaṁ, ārocemi taṁ bhagavato”ti.
Này Pañcasikha, hãy nói cho ta nghe! Thế Tôn nói như vậy.
“Ārocehi me tvaṁ, pañcasikhā”ti bhagavā avoca.
1. Kỳ Họp Của Thiên Chúng
1. Devasabhā
“Bạch Thế Tôn, trong những ngày xưa, những ngày xa xưa, nhân đêm trăng rằm Bố-tát (Uposatha), trong tháng nhập cư mùa mưa, toàn thể chư Thiên ở cõi Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại Thiện Pháp đường.
“Purimāni, bhante, divasāni purimatarāni tadahuposathe pannarase pavāraṇāya puṇṇāya puṇṇamāya rattiyā kevalakappā ca devā tāvatiṁsā sudhammāyaṁ sabhāyaṁ sannisinnā honti sannipatitā;
Xung quanh có Ðại thiên chúng ngồi khắp mọi phía; tại bốn phương hướng có bốn vị đại vương ngồi.
mahatī ca dibbaparisā samantato nisinnā honti, cattāro ca mahārājāno catuddisā nisinnā honti;
Ðại vương Dhatarattha (Trì Quốc Thiên vương), vua ở phương Ðông, ngồi xây mặt hướng Tây, trước mặt Thiên chúng.
puratthimāya disāya dhataraṭṭho mahārājā pacchimābhimukho nisinno hoti deve purakkhatvā;
Ðại vương Virūḷhaka (Tăng Trưởng thiên vương), vua ở phương Nam, ngồi xây mặt hướng Bắc, trước mặt Thiên chúng.
dakkhiṇāya disāya virūḷhako mahārājā uttarābhimukho nisinno hoti deve purakkhatvā;
Ðại vương Virūpakkha (Quảng Mục Thiên vương), vua ở phương Tây, ngồi xây mặt hướng Ðông, trước mặt Thiên chúng.
pacchimāya disāya virūpakkho mahārājā puratthābhimukho nisinno hoti deve purakkhatvā;
Ðại vương Vessavaṇa (Tỳ-sa-môn Thiên vương), vua ở phương Bắc, ngồi xây mặt hướng Nam, trước mặt Thiên chúng.
uttarāya disāya vessavaṇo mahārājā dakkhiṇābhimukho nisinno hoti deve purakkhatvā.
Bạch Thế Tôn, khi nào toàn thể chư Thiên ở cõi Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại Thiện Pháp đường, xung quanh có Ðại thiên chúng ngồi khắp mọi phía và tại bốn phương hướng có bốn vị đại vương ngồi, như vậy là thứ tự các chỗ ngồi của các vị này,
Yadā, bhante, kevalakappā ca devā tāvatiṁsā sudhammāyaṁ sabhāyaṁ sannisinnā honti sannipatitā, mahatī ca dibbaparisā samantato nisinnā honti, cattāro ca mahārājāno catuddisā nisinnā honti, idaṁ nesaṁ hoti āsanasmiṁ;
rồi đến chỗ ngồi của chúng con.
atha pacchā amhākaṁ āsanaṁ hoti.
Bạch Thế Tôn, chư Thiên nào trước sống phạm hạnh theo Thế Tôn và nay mới sanh lên cõi Tam thập tam thiên, những vị này thắng xa chư Thiên khác về thân sắc và danh tiếng.
Ye te, bhante, devā bhagavati brahmacariyaṁ caritvā adhunūpapannā tāvatiṁsakāyaṁ, te aññe deve atirocanti vaṇṇena ceva yasasā ca.
Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên đẹp lòng, thoải mái, hoan hỷ sanh:
Tena sudaṁ, bhante, devā tāvatiṁsā attamanā honti pamuditā pītisomanassajātā;
Thiên giới thật sự được tăng thịnh, còn A-tu-la giới bị hoại diệt.
‘dibbā vata bho kāyā paripūrenti, hāyanti asurakāyā’ti.
Bạch Thế Tôn, lại bây giờ Thiên chủ Ðế-thích (Sakka) thấy chư Thiên ở Tam thập tam thiên hoan hỷ bèn tùy hỷ nói lên bài kệ như sau:
Atha kho, bhante, sakko devānamindo devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sampasādaṁ viditvā imāhi gāthāhi anumodi:
‘Chư Tam thập tam thiên,
‘Modanti vata bho devā,
Cùng Đế Thích hoan hỷ;
tāvatiṁsā sahindakā;
Ðảnh lễ bậc Như Lai,
Tathāgataṁ namassantā,
Cùng Chánh pháp vi diệu.
dhammassa ca sudhammataṁ.
Thấy Thiên chúng tân sanh,
Nave deve ca passantā,
Quang sắc thật thù thắng,
vaṇṇavante yasassine;
Các vị sống phạm hạnh,
Sugatasmiṁ brahmacariyaṁ,
Nay sanh tại cõi này.
caritvāna idhāgate.
Họ thắng về quang sắc,
Te aññe atirocanti,
Thọ mạng và danh xưng.
vaṇṇena yasasāyunā;
Ðệ tử bậc Ðại Tuệ,
Sāvakā bhūripaññassa,
Thù thắng sanh cõi này.
visesūpagatā idha.
Chư Tam thập tam thiên,
Idaṁ disvāna nandanti,
Cùng Ðế-thích hoan hỷ,
tāvatiṁsā sahindakā;
Ðảnh lễ bậc Như Lai,
Tathāgataṁ namassantā,
Và Chánh pháp vi diệu.’
dhammassa ca sudhammatan’ti.
Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên lại càng đẹp lòng thoải mái hoan hỷ hơn nữa và nói:
Tena sudaṁ, bhante, devā tāvatiṁsā bhiyyoso mattāya attamanā honti pamuditā pītisomanassajātā;
Thiên giới thật sự được tăng thịnh, còn A-tu-la giới bị hoại diệt
‘dibbā vata bho, kāyā paripūrenti, hāyanti asurakāyā’ti.
2. Tám Pháp Như Thật
2. Aṭṭhayathābhuccavaṇṇa
Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Ðế-thích biết được chư Thiên ở Tam thập tam thiên hoan hỷ, liền nói với Chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
Atha kho, bhante, sakko devānamindo devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sampasādaṁ viditvā deve tāvatiṁse āmantesi:
Các vị có muốn nghe tám pháp như thật của Thế Tôn không?
‘iccheyyātha no tumhe, mārisā, tassa bhagavato aṭṭha yathābhucce vaṇṇe sotun’ti?
Chúng tôi muốn nghe tám pháp Như thật của Thế Tôn.
‘Icchāma mayaṁ, mārisa, tassa bhagavato aṭṭha yathābhucce vaṇṇe sotun’ti.
Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Ðế-thích ở Tam thập tam thiên giải thích về tám pháp Như thật của Thế Tôn như sau:
Atha kho, bhante, sakko devānamindo devānaṁ tāvatiṁsānaṁ bhagavato aṭṭha yathābhucce vaṇṇe payirudāhāsi:
‘Này chư Thiện hữu ở Tam thập tam thiên các vị nghĩ thế nào?
‘Taṁ kiṁ maññanti, bhonto devā tāvatiṁsā?
Như Lai dấn thân vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc vì an lạc cho loài Trời và loài Người.
Yāvañca so bhagavā bahujanahitāya paṭipanno bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṁ.
Một vị Ðại sư dấn thân vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc vì an lạc cho loài Trời và loài Người như vậy, một vị Ðại sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy được trong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ bahujanahitāya paṭipannaṁ bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṁ imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā.
Chánh pháp được Thế Tôn khéo léo thuyết giảng, một Chánh pháp thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, luôn luôn hướng thượng, chỉ người có trí tự mình giác hiểu.
Svākkhāto kho pana tena bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṁ veditabbo viññūhi.
Một vị Giảng sư thuyết pháp hướng thượng như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy được trong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ opaneyyikassa dhammassa desetāraṁ imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā.
“Ðây là thiện”, “đây là bất thiện” đã được Thế Tôn khéo giải thích.
“Idaṁ kusalan”ti kho pana tena bhagavatā supaññattaṁ, “idaṁ akusalan”ti supaññattaṁ.
“Ðây có tội”, “đây không tội”, “đây cần phải tuân theo”, “đây cần phải né tránh”, “đây là hạ liệt”, “đây là cao thượng”, “đây là đen trắng đồng đẳng”, được Thế Tôn khéo giải thích.
“Idaṁ sāvajjaṁ idaṁ anavajjaṁ, idaṁ sevitabbaṁ idaṁ na sevitabbaṁ, idaṁ hīnaṁ idaṁ paṇītaṁ, idaṁ kaṇhasukkasappaṭibhāgan”ti supaññattaṁ.
Một vị khéo giải thích các pháp thiện, bất thiện, có tội, không có tội, cần phải thuận theo, cần phải né tránh, hạ liệt, cao thượng, đen trắng đồng đẳng, một vị Ðại sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy được trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ kusalākusalasāvajjānavajjasevitabbāsevitabbahīnapaṇītakaṇhasukkasappaṭibhāgānaṁ dhammānaṁ paññāpetāraṁ imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā.
Con đường đưa đến Niết-bàn cho các đệ tử, Niết-bàn và con đường phối hợp thành một, đã được Thế Tôn khéo giải thích như nước sông Hằng phối hợp và cùng chảy với nước sông Yamuna (Diệm-mâu-na).
Supaññattā kho pana tena bhagavatā sāvakānaṁ nibbānagāminī paṭipadā, saṁsandati nibbānañca paṭipadā ca. Seyyathāpi nāma gaṅgodakaṁ yamunodakena saṁsandati sameti;
Cũng vậy con đường đưa đến Niết-bàn cho các đệ tử, Niết-bàn và con đường phối hợp thành một đã được Thế Tôn khéo giải thích.
evameva supaññattā tena bhagavatā sāvakānaṁ nibbānagāminī paṭipadā, saṁsandati nibbānañca paṭipadā ca.
Một vị khéo giải thích con đường hướng đến Niết-bàn như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ nibbānagāminiyā paṭipadāya paññāpetāraṁ imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā.
Lợi dưỡng cúng dường cho Thế Tôn đã được an bài chắc chắn, danh tiếng cũng đã được an bài chắc chắn, và con nghĩ rằng các vị Sát-đế-lỵ (Khattiyā) sống với gương mặt rất quý mến Ngài. Nhưng Thế Tôn sống thọ hưởng các lợi dưỡng với tâm không kiêu mạn.
Abhinipphanno kho pana tassa bhagavato lābho abhinipphanno siloko, yāva maññe khattiyā sampiyāyamānarūpā viharanti, vigatamado kho pana so bhagavā āhāraṁ āhāreti.
Một vị sống thọ hưởng các lợi dưỡng với tâm không kiêu mạn như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ vigatamadaṁ āhāraṁ āharayamānaṁ imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā.
Thế Tôn cũng đã đào tạo được chúng thiện hữu Hữu học đang đi trên nẻo đạo và các vị Lậu tận đã hoàn tất Thánh đạo.
Laddhasahāyo kho pana so bhagavā sekhānañceva paṭipannānaṁ khīṇāsavānañca vusitavataṁ.
Ngài không di tản chúng nhưng sống cùng chung một niềm hòa hợp lạc trú.
Te bhagavā apanujja ekārāmataṁ anuyutto viharati.
Một vị sống cùng chung một niềm hòa hợp lạc trú, một Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ ekārāmataṁ anuyuttaṁ imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā.
Thế Tôn nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy. Một vị nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy, thành tựu các pháp và tùy pháp như vậy, làm gì thời nói vậy, thành tựu các pháp và tùy pháp như vậy.
Yathāvādī kho pana so bhagavā tathākārī, yathākārī tathāvādī, iti yathāvādī tathākārī, yathākārī tathāvādī.
Một vị đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ dhammānudhammappaṭipannaṁ imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā.
Thế Tôn đã vượt khỏi nghi ngờ, diệt trừ do dự, mọi suy tư được thỏa mãn về tâm nguyện và tối sơ phạm hạnh.
Tiṇṇavicikiccho kho pana so bhagavā vigatakathaṅkatho pariyositasaṅkappo ajjhāsayaṁ ādibrahmacariyaṁ.
Một vị đã vượt khỏi nghi ngờ, diệt trừ do dự, mọi suy tư được thỏa mãn về tâm nguyện và tối sơ phạm hạnh, một bậc Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ tiṇṇavicikicchaṁ vigatakathaṅkathaṁ pariyositasaṅkappaṁ ajjhāsayaṁ ādibrahmacariyaṁ imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā’ti.
Bạch thế tôn, đó là tám pháp như thực của đức Thế Tôn được đức vua trời Sakka tuyên bố.
Ime kho, bhante, sakko devānamindo devānaṁ tāvatiṁsānaṁ bhagavato aṭṭha yathābhucce vaṇṇe payirudāhāsi.
Khi nghe nói vậy, chư thiên ở Tam thập Tam thiên lại càng hoan hỷ.
Tena sudaṁ, bhante, devā tāvatiṁsā bhiyyoso mattāya attamanā honti pamuditā pītisomanassajātā bhagavato aṭṭha yathābhucce vaṇṇe sutvā.
Bạch Thế Tôn, rồi một số chư Thiên nói như sau:
Tatra, bhante, ekacce devā evamāhaṁsu:
‘Chư Thiện hữu, nếu có được bốn vị Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, diễn giảng Chánh pháp như Thế Tôn.
‘aho vata, mārisā, cattāro sammāsambuddhā loke uppajjeyyuṁ dhammañca deseyyuṁ yathariva bhagavā.
Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời.
Tadassa bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānan’ti.
Một số chư Thiên khác lại nói như sau:
Ekacce devā evamāhaṁsu:
Chư Thiện hữu, cần gì có bốn vị Chánh Ðẳng Giác. Chư Thiện hữu, nếu có được ba vị Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, diễn giảng Chánh pháp như Thế Tôn.
‘tiṭṭhantu, mārisā, cattāro sammāsambuddhā, aho vata, mārisā, tayo sammāsambuddhā loke uppajjeyyuṁ dhammañca deseyyuṁ yathariva bhagavā.
Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời.
Tadassa bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānan’ti.
Một số chư Thiên khác lại nói như sau:
Ekacce devā evamāhaṁsu:
Chư Thiện hữu, cần gì có ba vị Chánh Ðẳng Giác. Chư Thiện hữu, nếu có được hai vị Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, diễn giảng chánh pháp như Thế Tôn.
‘tiṭṭhantu, mārisā, tayo sammāsambuddhā, aho vata, mārisā, dve sammāsambuddhā loke uppajjeyyuṁ dhammañca deseyyuṁ yathariva bhagavā.
Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời.
Tadassa bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānan’ti.
Bạch Thế Tôn, khi được nói vậy, Thiên chủ Ðế-thích nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
Evaṁ vutte, bhante, sakko devānamindo deve tāvatiṁse etadavoca:
Chư Thiện hữu, không một chỗ nào, không một thời gian nào cùng chung một thế giới mà có hai vị Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác đồng thời ra đời, không ra trước, không ra sau, không bao giờ sự kiện như vậy có thể xảy ra.
‘aṭṭhānaṁ kho etaṁ, mārisā, anavakāso, yaṁ ekissā lokadhātuyā dve arahanto sammāsambuddhā apubbaṁ acarimaṁ uppajjeyyuṁ, netaṁ ṭhānaṁ vijjati.
Chư Thiện hữu, một bậc Thế Tôn như vậy, không có tật bệnh, không có đau khổ, sống như vậy trong khoảng thời gian rất dài.
Aho vata, mārisā, so bhagavā appābādho appātaṅko ciraṁ dīghamaddhānaṁ tiṭṭheyya.
Như vậy mới đem lại hạnh phúc cho chúng sanh, an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc và an lạc cho loài Người và loài Trời.
Tadassa bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānan’ti.
Bạch Thế Tôn, rồi với mục đích gì chư Thiên ở Tam thập tam thiên ngồi hội họp tại Thiện Pháp đường, các vị này suy tư, thảo luận về mục đích ấy. Và tùy thuộc về mục đích ấy, bốn vị đại vương được thuyết giảng:
Atha kho, bhante, yenatthena devā tāvatiṁsā sudhammāyaṁ sabhāyaṁ sannisinnā honti sannipatitā, taṁ atthaṁ cintayitvā taṁ atthaṁ mantayitvā vuttavacanāpi taṁ cattāro mahārājāno tasmiṁ atthe honti.
Theo mục đích ấy, bốn vị đại vương được khuyến giáo, bốn vị này đều đứng một bên chỗ ngồi của mình.
Paccānusiṭṭhavacanāpi taṁ cattāro mahārājāno tasmiṁ atthe honti, sakesu sakesu āsanesu ṭhitā avipakkantā.
Các đại vương chấp nhận,
Te vuttavākyā rājāno,
Lời giảng dạy khuyết giáo,
paṭiggayhānusāsaniṁ;
Thanh thoát và an tịnh,
Vippasannamanā santā,
Ðứng bên chỗ mình ngồi.
aṭṭhaṁsu samhi āsaneti.
Bạch Thế Tôn, rồi từ phương Bắc, một ánh sáng vi diệu khởi lên, một hào quang hiện ra thắng xa oai lực của chư Thiên.
Atha kho, bhante, uttarāya disāya uḷāro āloko sañjāyi, obhāso pāturahosi atikkammeva devānaṁ devānubhāvaṁ.
Bạch Thế Tôn, rồi Thiên chủ Sakka, nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
Atha kho, bhante, sakko devānamindo deve tāvatiṁse āmantesi:
‘Này các Thiện hữu, theo các hiện tượng được thấy, ánh sáng khởi lên, hào quang hiện ra. Như vậy là báo hiệu Phạm thiên sẽ xuất hiện. Vì hiện tượng báo hiệu Phạm thiên xuất hiện là ánh sáng khởi lên và hào quang hiện ra.
‘yathā kho, mārisā, nimittāni dissanti, uḷāro āloko sañjāyati, obhāso pātubhavati, brahmā pātubhavissati; brahmuno hetaṁ pubbanimittaṁ pātubhāvāya, yadidaṁ āloko sañjāyati obhāso pātubhavatīti.
Theo hiện tượng được thấy,
Yathā nimittā dissanti,
Phạm thiên sẽ xuất hiện,
brahmā pātubhavissati;
Hiện tượng bậc Phạm thiên,
Brahmuno hetaṁ nimittaṁ,
Là hào quang vi diệu.
obhāso vipulo mahā’ti.
3. Sự Xuất Hiện Phạm Thiên Sanaṅkumāra
3. Sanaṅkumārakathā
Bạch Thế Tôn, rồi chư Thiên ở Tam thập tam thiên, ngồi xuống trên ghế ngồi của mình và nói rằng:
Atha kho, bhante, devā tāvatiṁsā yathāsakesu āsanesu nisīdiṁsu:
Chúng tôi sẽ tìm hiểu kết quả của hào quang này là thế nào, sau khi được biết, chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy.
‘obhāsametaṁ ñassāma, yaṁvipāko bhavissati, sacchikatvāva naṁ gamissāmā’ti.
Cũng vậy bốn vị đại vương ngồi xuống trên ghế của mình và nói rằng: Chúng tôi sẽ tìm hiểu kết quả của hào quang này là thế nào, sau khi được biết, chúng tôi sẽ đi gặp vị ấy.
Cattāropi mahārājāno yathāsakesu āsanesu nisīdiṁsu: ‘obhāsametaṁ ñassāma, yaṁvipāko bhavissati, sacchikatvāva naṁ gamissāmā’ti.
Sau khi nghe vậy, chư Thiên ở Tam thập tam thiên đều đồng một lòng một ý:
Idaṁ sutvā devā tāvatiṁsā ekaggā samāpajjiṁsu:
“Chúng ta sẽ tìm hiểu kết quả của hào quang này là thế nào, sau khi đã được biết, chúng ta sẽ gặp vị ấy”.
‘obhāsametaṁ ñassāma, yaṁvipāko bhavissati, sacchikatvāva naṁ gamissāmā’ti.
Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Saṅamkumāra (Thường Ðồng hình Phạm thiên) xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên, ngài xuất hiện với một hóa tướng thô xấu.
Yadā, bhante, brahmā sanaṅkumāro devānaṁ tāvatiṁsānaṁ pātubhavati, oḷārikaṁ attabhāvaṁ abhinimminitvā pātubhavati.
Bạch Thế Tôn, vì khi Phạm thiên tự nhiên hiện hóa, các tướng không đủ thù thắng để chư Thiên ở Tam thập tam thiên khâm phục.
Yo kho pana, bhante, brahmuno pakativaṇṇo, anabhisambhavanīyo so devānaṁ tāvatiṁsānaṁ cakkhupathasmiṁ.
Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Saṅamkumāra xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên vị này thắng xa chư Thiên khác về sắc tướng và danh tiếng.
Yadā, bhante, brahmā sanaṅkumāro devānaṁ tāvatiṁsānaṁ pātubhavati, so aññe deve atirocati vaṇṇena ceva yasasā ca.
Bạch Thế Tôn, như một hình tượng bằng vàng chói sáng hơn thân hình con người, cũng vậy bạch Thế Tôn khi Phạm thiên Saṅamkumāra xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên, vị này thắng xa chư Thiên khác về sắc tướng và danh tiếng.
Seyyathāpi, bhante, so vaṇṇo viggaho mānusaṁ viggahaṁ atirocati; evameva kho, bhante, yadā brahmā sanaṅkumāro devānaṁ tāvatiṁsānaṁ pātubhavati, so aññe deve atirocati vaṇṇena ceva yasasā ca.
Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Saṅamkumāra xuất hiện trước chư Thiên ở Tam thập tam thiên, không một vị Thiên trong chúng này đảnh lễ hoặc đứng dậy mời Phạm thiên ngồi.
Yadā, bhante, brahmā sanaṅkumāro devānaṁ tāvatiṁsānaṁ pātubhavati, na tassaṁ parisāyaṁ koci devo abhivādeti vā paccuṭṭheti vā āsanena vā nimanteti.
Tất cả đều yên lặng, chắp tay, không ngồi trên chỗ ngồi của mình và nghĩ rằng:
Sabbeva tuṇhībhūtā pañjalikā pallaṅkena nisīdanti:
Nếu nay Phạm thiên Saṅamkumāra muốn gì với vị Thiên nào, thì hãy ngồi trên chỗ ngồi của vị Thiên ấy.
‘yassadāni devassa pallaṅkaṁ icchissati brahmā sanaṅkumāro, tassa devassa pallaṅke nisīdissatī’ti.
Bạch thế tôn, Phạm thiên Saṅamkumāra ngồi chỗ của vị thiên nào, thì vị ấy sẽ vô cùng sảng khoái, sẽ vô cùng hoan hỷ.
Yassa kho pana, bhante, devassa brahmā sanaṅkumāro pallaṅke nisīdati, uḷāraṁ so labhati devo vedapaṭilābhaṁ, uḷāraṁ so labhati devo somanassapaṭilābhaṁ.
Bạch Thế Tôn, như vị vua Sát-đế-lỵ vừa mới làm lễ quán đảnh và lên vương vị, vị ấy sẽ vô cùng sảng khoái, sẽ vô cùng hoan hỷ.
Seyyathāpi, bhante, rājā khattiyo muddhāvasitto adhunābhisitto rajjena, uḷāraṁ so labhati vedapaṭilābhaṁ, uḷāraṁ so labhati somanassapaṭilābhaṁ;
Cũng vậy, bạch Thế Tôn, Phạm thiên Saṅamkumāra ngồi trên chỗ ngồi của vị Thiên nào, vị Thiên ấy sẽ vô cùng sảng khoái, sẽ vô cùng hoan hỷ.
evameva kho, bhante, yassa devassa brahmā sanaṅkumāro pallaṅke nisīdati, uḷāraṁ so labhati devo vedapaṭilābhaṁ, uḷāraṁ so labhati devo somanassapaṭilābhaṁ.
Bạch Thế Tôn, rồi Phạm thiên Saṅamkumāra biết được sự thoải mái hoan hỷ của chư Thiên ở Tam thập tam thiên liền ân hình tùy hỷ nói lên bài kệ sau đây:
Atha, bhante, brahmā sanaṅkumāro devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sampasādaṁ viditvā antarahito imāhi gāthāhi anumodi:
‘Chư Tam thập tam thiên,
‘Modanti vata bho devā,
cùng Đế Thích hoan hỷ;
tāvatiṁsā sahindakā;
Ðảnh lễ bậc Như Lai,
Tathāgataṁ namassantā,
Cùng Chánh pháp vi diệu.
dhammassa ca sudhammataṁ.
Thấy Thiên chúng tân sanh,
Nave deve ca passantā,
Quang sắc thật thù thắng,
vaṇṇavante yasassine;
Các vị sống phạm hạnh,
Sugatasmiṁ brahmacariyaṁ,
Nay sanh tại cõi này.
caritvāna idhāgate.
Họ thắng về quang sắc,
Te aññe atirocanti,
Thọ mạng và danh xưng.
vaṇṇena yasasāyunā;
Ðệ tử bậc Ðại Tuệ,
Sāvakā bhūripaññassa,
Thù thắng sanh cõi này.
visesūpagatā idha.
Chư Tam thập tam thiên,
Idaṁ disvāna nandanti,
cùng Ðế-thích hoan hỷ,
tāvatiṁsā sahindakā;
Ðảnh lễ bậc Như Lai,
Tathāgataṁ namassantā,
Và Chánh pháp vi diệu.
dhammassa ca sudhammatan’ti.
Bạch Thế Tôn, đó là nội dung lời nói của Phạm Thiên Saṅamkumāra.
Imamatthaṁ, bhante, brahmā sanaṅkumāro abhāsittha.
Bạch Thế Tôn tiếng nói của Phạm Thiên Saṅamkumāra có tám đặc điểm sau đây: Lưu loát, dễ hiểu, dịu ngọt, nghe rõ ràng, sung mãn, phân minh, thâm sâu và vang động.
Imamatthaṁ, bhante, brahmuno sanaṅkumārassa bhāsato aṭṭhaṅgasamannāgato saro hoti vissaṭṭho ca viññeyyo ca mañju ca savanīyo ca bindu ca avisārī ca gambhīro ca ninnādī ca.
Bạch Thế Tôn, khi Phạm thiên Saṅamkumāra giải thích cho hội chúng với tiếng nói của mình, tiếng nói không vượt ra khỏi đại chúng.
Yathāparisaṁ kho pana, bhante, brahmā sanaṅkumāro sarena viññāpeti, na cassa bahiddhā parisāya ghoso niccharati.
Bạch Thế Tôn một tiếng nói có tám đặc điểm như vậy được gọi là Phạm âm.
Yassa kho pana, bhante, evaṁ aṭṭhaṅgasamannāgato saro hoti, so vuccati ‘brahmassaro’ti.
Bạch Thế Tôn, chư Thiên ở Tam thập tam thiên nói với Phạm thiên Saṅamkumāra như sau:
Atha kho, bhante, devā tāvatiṁsā brahmānaṁ sanaṅkumāraṁ etadavocuṁ:
Lành thay! này Phạm thiên, chúng tôi thật sự hoan hỷ với những điều chúng tôi đã được chú ý.
‘sādhu, mahābrahme, etadeva mayaṁ saṅkhāya modāma;
Hơn nữa Thiên chủ Sakka đã nói đến tám pháp như thật của Thế Tôn;
atthi ca sakkena devānamindena tassa bhagavato aṭṭha yathābhuccā vaṇṇā bhāsitā;
và chúng tôi hoan hỷ với tám pháp này.
te ca mayaṁ saṅkhāya modāmā’ti.
4. Tám Pháp Như Thật
4. Aṭṭhayathābhuccavaṇṇa
Bạch Thế Tôn, rồi Phạm thiên Sanaṅkumāra nói với Thiên chủ Ðế-thích:
Atha, bhante, brahmā sanaṅkumāro sakkaṁ devānamindaṁ etadavoca:
Thật lành thay, Thiên chủ, nếu chúng tôi được nghe tám pháp như thật của Thế Tôn.
‘sādhu, devānaminda, mayampi tassa bhagavato aṭṭha yathābhucce vaṇṇe suṇeyyāmā’ti.
Vâng, Ðại Phạm thiên. Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Ðế-thích, giải thích tám pháp như thật của Thế Tôn cho Phạm thiên Sanaṅkumāra:
‘Evaṁ, mahābrahme’ti kho, bhante, sakko devānamindo brahmuno sanaṅkumārassa bhagavato aṭṭha yathābhucce vaṇṇe payirudāhāsi.
Này Thiện hữu Ðại Phạm thiên, Ngài nghĩ thế nào?
‘Taṁ kiṁ maññati, bhavaṁ mahābrahmā?
Như Lai dấn thân vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời, loài Người.
Yāvañca so bhagavā bahujanahitāya paṭipanno bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṁ.
Một vị Ðạo sư dấn thân vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời, loài Người như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy chúng ta khó tìm thấy được trong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ bahujanahitāya paṭipannaṁ bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṁ imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā.
Chánh pháp được Thế Tôn khéo léo thuyết giảng, một Chánh pháp thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, luôn luôn hướng thiện, chỉ người có trí tự mình giác hiểu.
Svākkhāto kho pana tena bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṁ veditabbo viññūhi.
Một vị Giảng sư thuyết pháp hướng thượng như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy được trong quá khứ cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ opaneyyikassa dhammassa desetāraṁ imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā.
“Ðây là thiện”, “đây là bất thiện”, đã được Thế Tôn khéo giải thích. “Ðây là có tội”, “đây là không tội”, “Ðây cần phải tuân theo”, “đây cần phải né tránh”, “đây là hạ liệt”, “đây là cao thượng”, “đây là đen trắng đồng đẳng”, đã được Thế Tôn khéo giải thích.
“Idaṁ kusalan”ti kho pana tena bhagavatā supaññattaṁ, “idaṁ akusalan”ti supaññattaṁ, “idaṁ sāvajjaṁ idaṁ anavajjaṁ, idaṁ sevitabbaṁ idaṁ na sevitabbaṁ, idaṁ hīnaṁ idaṁ paṇītaṁ, idaṁ kaṇhasukkasappaṭibhāgan”ti supaññattaṁ.
Một vị khéo giải thích các pháp thiện, bất thiện, có tội, không có tội, cần phải thuận theo, cần phải né tránh, hạ liệt, cao thượng, đen trắng đồng đẳng, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy được trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ kusalākusalasāvajjānavajjasevitabbāsevitabbahīnapaṇītakaṇhasukkasappaṭibhāgānaṁ dhammānaṁ paññāpetāraṁ. Imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā.
Con đường đưa đến Niết-bàn cho các đệ tử, Niết-bàn và con đường phối hợp thành một, đã được Thế Tôn khéo léo giải thích. Như nước sông Hằng phối hợp và cùng chảy với nước sông Yamunā, cũng vậy con đường đưa đến Niết-bàn cho các đệ tử, Niết-bàn và con đường phối hợp thành một đã được Thế Tôn khéo giải thích.
Supaññattā kho pana tena bhagavatā sāvakānaṁ nibbānagāminī paṭipadā saṁsandati nibbānañca paṭipadā ca. Seyyathāpi nāma gaṅgodakaṁ yamunodakena saṁsandati sameti; evameva supaññattā tena bhagavatā sāvakānaṁ nibbānagāminī paṭipadā saṁsandati nibbānañca paṭipadā ca.
Một vị khéo giải thích con đường hướng đến Niết-bàn như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ nibbānagāminiyā paṭipadāya paññāpetāraṁ imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā.
Lợi dưỡng cúng dường cho thế Tôn đã được an bài chắc chắn, danh tiếng cũng đã được an bài chắc chắn, và con nghĩ rằng các vị Sát-đế-lỵ sống với diện mạo rất quý mến Ngài. Nhưng Thế Tôn sống thọ hưởng các lợi dưỡng với tâm không kiêu mạn.
Abhinipphanno kho pana tassa bhagavato lābho abhinipphanno siloko, yāva maññe khattiyā sampiyāyamānarūpā viharanti. Vigatamado kho pana so bhagavā āhāraṁ āhāreti.
Một vị sống thọ hưởng các lợi dưỡng với tâm không kiêu mạn như vậy, một vị Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ vigatamadaṁ āhāraṁ āharayamānaṁ imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā.
Thế Tôn cũng đã đào tạo được chúng thiện hữu Hữu học đang đi trên nẻo đạo và các vị Lậu tận đã hoàn tất Thánh đạo. Ngài không di tản chúng, nhưng sống cùng chung một niềm hòa hợp lạc trú.
Laddhasahāyo kho pana so bhagavā sekhānañceva paṭipannānaṁ khīṇāsavānañca vusitavataṁ. Te bhagavā apanujja ekārāmataṁ anuyutto viharati.
Một vị sống cùng chung một niềm hòa hợp lạc trú, một Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ ekārāmataṁ anuyuttaṁ imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā.
Thế Tôn nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy. Một vị nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy, thành tựu các pháp và tùy pháp như vậy, làm gì thời nói vậy, thành tựu các pháp và tùy pháp như vậy.
Yathāvādī kho pana so bhagavā tathākārī, yathākārī tathāvādī; iti yathāvādī tathākārī, yathākārī tathāvādī.
Một vị đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ dhammānudhammappaṭippannaṁ imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā.
Thế Tôn đã vượt khỏi nghi ngờ, diệt trừ do dự, mọi suy tư hoặc thỏa mãn về tâm nguyện và tối sơ phạm hạnh.
Tiṇṇavicikiccho kho pana so bhagavā vigatakathaṅkatho pariyositasaṅkappo ajjhāsayaṁ ādibrahmacariyaṁ.
Một vị đã vượt khỏi nghi ngờ, diệt trừ do dự, mọi suy tư được thỏa mãn về tâm nguyện và tối sơ phạm hạnh, một bậc Ðạo sư đầy đủ đức tánh như vậy, chúng ta thật khó tìm thấy trong quá khứ, cũng như trong hiện tại, trừ Thế Tôn.
Evaṁ tiṇṇavicikicchaṁ vigatakathaṅkathaṁ pariyositasaṅkappaṁ ajjhāsayaṁ ādibrahmacariyaṁ. Imināpaṅgena samannāgataṁ satthāraṁ neva atītaṁse samanupassāma, na panetarahi, aññatra tena bhagavatā’ti.
Bạch thế tôn, đó là tám pháp như thực của đức Thế Tôn được đức vua trời Sakka nói với Phạm thiên Sanaṅkumāra.
Ime kho, bhante, sakko devānamindo brahmuno sanaṅkumārassa bhagavato aṭṭha yathābhucce vaṇṇe payirudāhāsi.
Khi nghe nói vậy, Phạm thiên Sanaṅkumāra lại càng hoan hỷ, lại càng thích thú,hỷ duyệt sung mãn khi được nghe tám pháp như thật của Thế Tôn.
Tena sudaṁ, bhante, brahmā sanaṅkumāro attamano hoti pamudito pītisomanassajāto bhagavato aṭṭha yathābhucce vaṇṇe sutvā.
Bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanaṅkumāra xuất hiện với hình tướng thô xấu, hiện thành một đồng tử tên là Pañcasikha (Ngũ Kế) trước mặt chư Thiên ở Tam thập tam thiên,
Atha, bhante, brahmā sanaṅkumāro oḷārikaṁ attabhāvaṁ abhinimminitvā kumāravaṇṇī hutvā pañcasikho devānaṁ tāvatiṁsānaṁ pāturahosi.
bay bổng lên trời, vị này, ngồi kiết-già giữa hư không.
So vehāsaṁ abbhuggantvā ākāse antalikkhe pallaṅkena nisīdi.
Bạch Thế Tôn, như một vị lực sĩ ngồi kiết-già trên một chỗ ngồi được trải bằng phẳng trên một mặt đất thăng bằng,
Seyyathāpi, bhante, balavā puriso supaccatthate vā pallaṅke same vā bhūmibhāge pallaṅkena nisīdeyya;
Cũng vậy bạch Thế Tôn, Phạm thiên Sanaṅkumāra bay bổng trên trời, ngồi kiết-già trên hư không và nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
evameva kho, bhante, brahmā sanaṅkumāro vehāsaṁ abbhuggantvā ākāse antalikkhe pallaṅkena nisīditvā deve tāvatiṁse āmantesi:
5. Câu Chuyện Bà-la-môn Govinda
5. Govindabrāhmaṇavatthu
Chư thiện hữu ở Tam thập tam thiên nghĩ thế nào? Thế Tôn đã được đại trí tuệ bao lâu rồi?
‘Taṁ kiṁ maññanti, bhonto devā tāvatiṁsā, yāva dīgharattaṁ mahāpaññova so bhagavā ahosi.
Chư Thiện hữu, thuở xưa có vị vua tên là Disampati (Thành Chủ).
Bhūtapubbaṁ, bho, rājā disampati nāma ahosi.
Vua Disampati có vị quốc sư tên Govinda (Ðiển Tôn)
Disampatissa rañño govindo nāma brāhmaṇo purohito ahosi.
và có vị hoàng tử tên là Renu (Lê-nô).
Disampatissa rañño reṇu nāma kumāro putto ahosi.
Bà-la-môn Govinda có người con trai tên là Jotipāla (Hộ Minh đồng tử).
Govindassa brāhmaṇassa jotipālo nāma māṇavo putto ahosi.
Hoàng tử Renu, đồng tử Jotipāla cùng sáu người Sát-đế-lỵ nữa, tám người này là thân hữu.
Iti reṇu ca rājaputto jotipālo ca māṇavo aññe ca cha khattiyā iccete aṭṭha sahāyā ahesuṁ.
Sau một thời gian, Bà-la-môn Govinda mệnh chung.
Atha kho, bho, ahorattānaṁ accayena govindo brāhmaṇo kālamakāsi.
Khi nghe Bà-la-môn Govinda mệnh chung, vua Sisampati than khóc như sau:
Govinde brāhmaṇe kālaṅkate rājā disampati paridevesi:
Tiếc thay, khi chúng ta giao mọi công việc cho Bà-la-môn Govinda để chúng ta có thể được đầy đủ và thọ hưởng năm món dục tăng thịnh, chính khi ấy Bà-la-môn lại mệnh chung.
“yasmiṁ vata, bho, mayaṁ samaye govinde brāhmaṇe sabbakiccāni sammā vossajjitvā pañcahi kāmaguṇehi samappitā samaṅgībhūtā paricārema, tasmiṁ no samaye govindo brāhmaṇo kālaṅkato”ti.
Nghe nói vậy, hoàng tử Renu tâu với vua Disampati:
Evaṁ vutte, bho, reṇu rājaputto rājānaṁ disampatiṁ etadavoca:
Tâu Ðại vương, chớ có quá sầu khổ than khóc vì Bà-la-môn Govinda từ trần.
“mā kho tvaṁ, deva, govinde brāhmaṇe kālaṅkate atibāḷhaṁ paridevesi.
Tâu Ðại vương, con của Bà-la-môn Govinda, thanh niên Jotipāla còn sáng suốt hơn phụ thân, còn biết kế hoạch sinh lợi hơn phụ thân.
Atthi, deva, govindassa brāhmaṇassa jotipālo nāma māṇavo putto paṇḍitataro ceva pitarā, alamatthadasataro ceva pitarā;
Những trách nhiệm gì Ðại vương giao cho phụ thân, nay hãy giao cho thanh niên Jotipāa.
yepissa pitā atthe anusāsi, tepi jotipālasseva māṇavassa anusāsaniyā”ti.
Như vậy là phải, Hoàng tử.
“Evaṁ, kumārā”ti?
Xin vâng, tâu Ðại vương.
“Evaṁ, devā”ti.
6. Câu Chuyện Về Đại Điển Tôn (Mahāgovinda)
6. Mahāgovindavatthu
Rồi vua Disampati cho gọi một người và bảo:
Atha kho, bho, rājā disampati aññataraṁ purisaṁ āmantesi:
Khanh hãy đi đến thanh niên Jotipāla, và nói như sau:
“ehi tvaṁ, ambho purisa, yena jotipālo māṇavo tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā jotipālaṁ māṇavaṁ evaṁ vadehi:
Mong rằng mọi tốt lành hãy đến với thanh niên Jotipāla! Vua Disampati có cho gọi thanh niên Jotipāla! Vua Disampati muốn được gặp thanh niên Jotipāla!
‘bhavamatthu bhavantaṁ jotipālaṁ, rājā disampati bhavantaṁ jotipālaṁ māṇavaṁ āmantayati, rājā disampati bhoto jotipālassa māṇavassa dassanakāmo’”ti.
“Tâu Ðại vương, xin vâng!”. Người ấy vâng lệnh vua Disampati, đến chỗ thanh niên Jotipāta ở, khi đến xong liền nói với thanh niên Jotipāla:
“Evaṁ, devā”ti kho, bho, so puriso disampatissa rañño paṭissutvā yena jotipālo māṇavo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā jotipālaṁ māṇavaṁ etadavoca:
Mong rằng mọi tốt lành hãy đến với thanh niên Jotipāla! Vua Disampati có cho gọi thanh niên Jotipāla! Vua Disampati muốn được gặp thanh niên Jotipāla!
“bhavamatthu bhavantaṁ jotipālaṁ, rājā disampati bhavantaṁ jotipālaṁ māṇavaṁ āmantayati, rājā disampati bhoto jotipālassa māṇavassa dassanakāmo”ti.
Xin vâng, này Thiện hữu! Thanh nhiên Jotipāla vâng theo lời người ấy, đi đến chỗ vua Disampati ở, khi đến xong liền nói lên những lời viếng thăm, và những lời khen tặng xã giao, rồi ngồi xuống một bên. Vua Disampati nói với thanh niên Jotipāla đang ngồi bên như sau:
“Evaṁ, bho”ti kho, bho, jotipālo māṇavo tassa purisassa paṭissutvā yena rājā disampati tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā disampatinā raññā saddhiṁ sammodi; sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinnaṁ kho, bho, jotipālaṁ māṇavaṁ rājā disampati etadavoca:
Này thanh niên Jotipāla! Nay ta muốn khanh chấp chánh! Thanh niên Jotipāla, chớ có từ chối chấp chánh!
“anusāsatu no bhavaṁ jotipālo, mā no bhavaṁ jotipālo anusāsaniyā paccabyāhāsi.
Ta sẽ đặt Khanh trong địa vị của phụ thân. Ta sẽ phong cho Khanh chức chưởng của Govinda!
Pettike taṁ ṭhāne ṭhapessāmi, govindiye abhisiñcissāmī”ti.
“Tâu Ðại vương, xin vâng! Thanh niên Jotipāla vâng theo lời dạy của vua Disampati.
“Evaṁ, bho”ti kho, bho, so jotipālo māṇavo disampatissa rañño paccassosi.
Rồi vua Disampati phong cho thanh niên Jotipāla chức chưởng của Govinda và đặt vào địa vị của phụ thân.
Atha kho, bho, rājā disampati jotipālaṁ māṇavaṁ govindiye abhisiñci, taṁ pettike ṭhāne ṭhapesi.
Thanh niên Jotipāla được phong chức chưởng của Govinda như vậy và được đặt vào địa vị của phụ thân như vậy, những phần việc gì phụ thân điều hành, những phần việc ấy thanh niên Jotipāla điều hành, những phần việc gì phụ thân không điều hành, những phần việc ấy thanh niên Jotipāla không điều hành.
Abhisitto jotipālo māṇavo govindiye pettike ṭhāne ṭhapito yepissa pitā atthe anusāsi tepi atthe anusāsati, yepissa pitā atthe nānusāsi tepi atthe anusāsati;
Những công tác gì phụ thân thực hiện, những công tác ấy thanh niên Jotipāla thực hiện; những công tác gì phụ thân không thực hiện, những công tác ấy thanh niên Jotipāla không thực hiện.
yepissa pitā kammante abhisambhosi tepi kammante abhisambhoti, yepissa pitā kammante nābhisambhosi tepi kammante abhisambhoti.
Do vậy, dân chúng nói về Jotipāla:
Tamenaṁ manussā evamāhaṁsu:
Vị Bà-la-môn thật sự là Govinda! Vị Bà-la-môn thật sự là Mahā Govinda và được danh tiếng là Mahā Govinda!
“govindo vata, bho, brāhmaṇo, mahāgovindo vata, bho, brāhmaṇo”ti.
Đó là những lý do tại sao thanh niên Jotipāla được ca tụng là Mahā Govinda.
Iminā kho evaṁ, bho, pariyāyena jotipālassa māṇavassa govindo mahāgovindotveva samaññā udapādi.
6.1. Phân Chia Quốc Độ
6.1. Rajjasaṁvibhajana
Rồi Mahā Govinda đến tại chỗ sáu vị Sát-đế-lỵ ở, khi đến xong, liền nói với sáu vị Sát-đế-lỵ như sau:
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo yena te cha khattiyā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te cha khattiye etadavoca:
Vua Disampati nay đã già, trọng tuổi, lớn tuổi, đã đến thời, đã đến hạn cuối cuộc đời. Này Thiện Hữu, ai có thể biết được thọ mạng của vua?
“disampati kho, bho, rājā jiṇṇo vuddho mahallako addhagato vayoanuppatto, ko nu kho pana, bho, jānāti jīvitaṁ?
Sự việc này có thể xảy ra, nếu vua Disampati mệnh chung, thời những vị có trách nhiệm phong vua, hãy phong hoàng tử Renu lên vương vị.
Ṭhānaṁ kho panetaṁ vijjati, yaṁ disampatimhi raññe kālaṅkate rājakattāro reṇuṁ rājaputtaṁ rajje abhisiñceyyuṁ.
Chư Thiện hữu, quí vị hãy đến chỗ hoàng tử Renu an trú, khi đến xong hãy thưa với hoàng tử Renu:
Āyantu, bhonto, yena reṇu rājaputto tenupasaṅkamatha; upasaṅkamitvā reṇuṁ rājaputtaṁ evaṁ vadetha:
Chúng tôi là những bạn hữu thân tình, thân ái, tâm đầu ý hiệp với Thiện hữu Renu! Chúng tôi sung sướng khi thiện hữu sung sướng, chúng tôi đau khổ khi Thiện hữu đau khổ.
‘mayaṁ kho bhoto reṇussa sahāyā piyā manāpā appaṭikūlā, yaṁsukho bhavaṁ taṁsukhā mayaṁ, yaṁdukkho bhavaṁ taṁdukkhā mayaṁ.
Nay vua Disampati đã già, trọng tuổi, lớn tuổi, đã đến thời, đã đến hạn cuối cuộc đời. Này Thiện hữu, ai có thể biết thọ mạng của vua?
Disampati kho, bho, rājā jiṇṇo vuddho mahallako addhagato vayoanuppatto, ko nu kho pana, bho, jānāti jīvitaṁ?
Sự việc này có thể xảy ra. Nếu vua Disampati mệnh chung, thời những vị có trách nhiệm phong vua, hãy phong hoàng tử Renu lên vương vị.
Ṭhānaṁ kho panetaṁ vijjati, yaṁ disampatimhi raññe kālaṅkate rājakattāro bhavantaṁ reṇuṁ rajje abhisiñceyyuṁ.
Nếu Thiện hữu Renu lên vương vị, hãy chia xẻ vương vị với chúng tôi!
Sace bhavaṁ reṇu rajjaṁ labhetha, saṁvibhajetha no rajjenā’”ti.
Xin vâng, Thiện hữu! Sáu vị Sát-đế-lỵ này, vâng theo lời của Bà la môn Mahā Govinda, đến tại chỗ của hoàng tử Renu, khi đến xong liền thưa với hoàng tử Renu:
“Evaṁ, bho”ti kho, bho, te cha khattiyā mahāgovindassa brāhmaṇassa paṭissutvā yena reṇu rājaputto tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā reṇuṁ rājaputtaṁ etadavocuṁ:
Chúng tôi là những bạn hữu thân tình, thân ái, tâm đầu ý hợp với Thiện hữu Renu, chúng tôi sung sướng khi Thiện hữu sung sướng, chúng tôi đau khổ khi thiện hữu đau khổ. Nay vua Disampati đã già, trọng tuổi, lớn tuổi, đã đến thời, đã đến hạn cuối cuộc đời. Này Thiện hữu, ai có thể biết được thọ mạng của vua?
“mayaṁ kho bhoto reṇussa sahāyā piyā manāpā appaṭikūlā; yaṁsukho bhavaṁ taṁsukhā mayaṁ, yaṁdukkho bhavaṁ taṁdukkhā mayaṁ. Disampati kho, bho, rājā jiṇṇo vuddho mahallako addhagato vayoanuppatto, ko nu kho pana bho jānāti jīvitaṁ?
Sự việc này có thể xảy ra. Nếu vua Disampati mệnh chung, thời những vị có trách nhiệm phong vua, hãy phong hoàng tử Renu lên vương vị.
Ṭhānaṁ kho panetaṁ vijjati, yaṁ disampatimhi raññe kālaṅkate rājakattāro bhavantaṁ reṇuṁ rajje abhisiñceyyuṁ.
Nếu Thiện hữu Renu lên vương vị, hãy chia vương vị với chúng tôi!
Sace bhavaṁ reṇu rajjaṁ labhetha, saṁvibhajetha no rajjenā”ti.
Chư Thiện hữu, có ai khác có quyền hưởng an lạc trong quốc độ của tôi, ngoài Quý vị?
“Ko nu kho, bho, añño mama vijite sukho bhavetha, aññatra bhavantebhi?
Nếu tôi được lên vương vị, tôi sẽ chia xẻ vương vị cho Quý vị.
Sacāhaṁ, bho, rajjaṁ labhissāmi, saṁvibhajissāmi vo rajjenā”ti.
Chư Thiện hữu, sau một thời gian vua Disampati mệnh chung.
Atha kho, bho, ahorattānaṁ accayena rājā disampati kālamakāsi.
Khi vua Disampati mệnh chung, những vị có trách nhiệm phong vua, liền phong hoàng tử Renu lên vương vị.
Disampatimhi raññe kālaṅkate rājakattāro reṇuṁ rājaputtaṁ rajje abhisiñciṁsu.
Khi được phong vương vị, hoàng tử Renu sống đầy đủ và thọ hưởng năm pháp dục tăng thịnh.
Abhisitto reṇu rajjena pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgībhūto paricāreti.
Khi ấy Bà la môn Mahā Govinda đi đến chỗ sáu vị Sát-đế-lỵ ở, khi đến xong liền nói rằng:
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo yena te cha khattiyā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te cha khattiye etadavoca:
Chư Thiện hữu, vua Disampati đã mệnh chung.
“disampati kho, bho, rājā kālaṅkato.
Thiện hữu Renu được phong vương vị lại sống đầy đủ và thọ hưởng năm pháp dục tăng thịnh.
Abhisitto reṇu rajjena pañcahi kāmaguṇehi samappito samaṅgībhūto paricāreti.
Chư Thiện hữu, ai có thể biết được? Dục vọng khiến con người si loạn.
Ko nu kho pana, bho, jānāti, madanīyā kāmā?
Chư Thiện hữu, hãy đi đến chỗ vua Renu ở, khi đến xong, hãy nói với vua Renu như sau:
Āyantu, bhonto, yena reṇu rājā tenupasaṅkamatha; upasaṅkamitvā reṇuṁ rājānaṁ evaṁ vadetha:
Thiện hữu, vua Disampati đã mệnh chung. Thiện hữu Renu được phong vương vị. Thiện hữu có nhớ lời hứa của mình không?
‘disampati kho, bho, rājā kālaṅkato, abhisitto bhavaṁ reṇu rajjena, sarati bhavaṁ taṁ vacanan’”ti?
Xin vâng, này Thiện hữu. Sáu vị Sát-đế-lỵ này vâng theo lời của Bà la môn Mahā Govinda đi đến chỗ vua Renu ở, khi đến xong, liền tâu vua Renu như sau:
“Evaṁ, bho”ti kho, bho, te cha khattiyā mahāgovindassa brāhmaṇassa paṭissutvā yena reṇu rājā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā reṇuṁ rājānaṁ etadavocuṁ:
Thiện hữu, vua Disampati đã mệnh chung, Thiện hữu Renu đã được phong vương vị. Thiện hữu có nhớ lời hứa của mình không?
“disampati kho, bho, rājā kālaṅkato, abhisitto bhavaṁ reṇu rajjena, sarati bhavaṁ taṁ vacanan”ti?
Chư Thiện hữu, tôi có nhớ lời hứa của tôi.
“Sarāmahaṁ, bho, taṁ vacanaṁ.
Chư Thiện hữu, ai có thể khéo phân chia đại địa này thành bảy phần đồng đều. Ðại địa này, phía Bắc thì rộng, phía Nam như bộ phận trước của cỗ xe?
Ko nu kho, bho, pahoti imaṁ mahāpathaviṁ uttarena āyataṁ dakkhiṇena sakaṭamukhaṁ sattadhā samaṁ suvibhattaṁ vibhajitun”ti?
Này Thiện hữu, ai có thể làm được, ngoại trừ Bà la môn Mahā Govinda?
“Ko nu kho, bho, añño pahoti, aññatra mahāgovindena brāhmaṇenā”ti?
Rồi vua Renu cho gọi một người và nói:
Atha kho, bho, reṇu rājā aññataraṁ purisaṁ āmantesi:
Này Khanh, Khanh hãy đi đến chỗ Bà la môn Mahā Govinda, khi đến xong hãy nói với Bà la môn Govinda: “Này Thiện hữu, vua Renu cho gọi Thiện hữu.
“ehi tvaṁ, ambho purisa, yena mahāgovindo brāhmaṇo tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā mahāgovindaṁ brāhmaṇaṁ evaṁ vadehi: rājā taṁ, bhante, reṇu āmantetī’”ti.
Xin vâng, tâu đại vương! Người ấy vâng theo lời của vua Renu, đến tại chỗ của Bà la môn Mahā Govinda ở, khi đến xong liền nói với Bà la môn Mahā Govinda: Thiện hữu, vua Renu cho gọi Thiện hữu.
“Evaṁ, devā”ti kho, bho, so puriso reṇussa rañño paṭissutvā yena mahāgovindo brāhmaṇo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā mahāgovindaṁ brāhmaṇaṁ etadavoca: rājā taṁ, bhante, reṇu āmantetī”ti.
Xin vâng, Thiện hữu! Bà-la-môn Mahā Govinda vâng theo lời nói của người ấy, đến tại chỗ vua Renu ở.
“Evaṁ, bho”ti kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo tassa purisassa paṭissutvā yena reṇu rājā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā reṇunā raññā saddhiṁ sammodi.
Khi đến xong liền nói lên những lời thăm viếng và những lời khen tặng xã giao với vua Renu rồi ngồi xuống một bên. Và vua Renu nói với Bà-la-môn Govinda đang ngồi xuống một bên như sau:
Sammodanīyaṁ kathaṁ sāraṇīyaṁ vītisāretvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinnaṁ kho, bho, mahāgovindaṁ brāhmaṇaṁ reṇu rājā etadavoca:
Này Thiện hữu Govinda, hãy đến và phân chia đại địa này thành bảy phần đồng đều, đại địa này phía Bắc thời rộng, phía Nam như bộ phận trước của cỗ xe.
“etu, bhavaṁ govindo imaṁ mahāpathaviṁ uttarena āyataṁ dakkhiṇena sakaṭamukhaṁ sattadhā samaṁ suvibhattaṁ vibhajatū”ti.
Xin vâng! tâu đại vương! Bà-la-môn Mahā Govinda vâng theo lời nói của vua Renu phân chia đại địa này thành bảy phần đồng đều, đại địa này phía Bắc rộng, phía Nam như bộ phận trước của cỗ xe.
“Evaṁ, bho”ti kho bho mahāgovindo brāhmaṇo reṇussa rañño paṭissutvā imaṁ mahāpathaviṁ uttarena āyataṁ dakkhiṇena sakaṭamukhaṁ sattadhā samaṁ suvibhattaṁ vibhaji.
Tất cả phần như hình phần trước của cỗ xe.
Sabbāni sakaṭamukhāni paṭṭhapesi.
Và vua Ruenu giữ phần quốc độ trung ương.
Tatra sudaṁ majjhe reṇussa rañño janapado hoti.
Dantapura (Nại-đa-bố-la) cho dân Kaliṅgas (Ca-lăng-giới);
Dantapuraṁ kaliṅgānaṁ,
Potana (Bao-tĩnh-noa) cho dân Assakas (Ma-thấp-na-ka);
assakānañca potanaṁ;
Mahissati (Ma-hê-sa-ma) cho dân Avantis (Ương-đế-na);
Mahesayaṁ avantīnaṁ,
Roruka (Lao-lỗ-ca) cho dân Sovīras (Tô-vĩ-la);
sovīrānañca rorukaṁ.
Mithila (Di-thế-la) cho dân Videhas (Vi-đề-hê);
Mithilā ca videhānaṁ,
Campā (Thiềm-ba) được tạo ra cho dân Aṅgas (Ương-già);
campā aṅgesu māpitā;
Bārāṇasī (Ba-la-nại) cho dân Kāsīs (Ca-thi);
Bārāṇasī ca kāsīnaṁ,
Tất cả đều do Govinda tạo lập.
ete govindamāpitāti.
Và sáu vị Sát-đế-lỵ này đều hoan hỷ về khu phần của mình được và sự thành tựu của điều mong ước:
Atha kho, bho, te cha khattiyā yathāsakena lābhena attamanā ahesuṁ paripuṇṇasaṅkappā:
Những điều gì chúng tôi muốn, những điều gì chúng tôi ao ước, những điều gì chúng tôi nhắm đến, những điều gì chúng tôi hy vọng, chúng tôi đều được hết.
“yaṁ vata no ahosi icchitaṁ, yaṁ ākaṅkhitaṁ, yaṁ adhippetaṁ, yaṁ abhipatthitaṁ, taṁ no laddhan”ti.
Sattabhū (Phá Oan vương) và Brahmadatta (Phạm Thọ vương),
Sattabhū brahmadatto ca,
Vessabhū (Thắng Tôn vương) và Bharata (Minh Ái vương),
vessabhū bharato saha;
Reṇu (Lê-nô vương) và hai Dhataraṭṭhas (Trì Quốc vương);
Reṇu dve dhataraṭṭhā ca,
Tất cả là bảy vị Bhāratas (Bà-la-đa vương).
tadāsuṁ satta bhāradhāti.
Chấm dứt tụng phẩm đầu tiên
Paṭhamabhāṇavāro niṭṭhito.
6.2. Danh Tiến Tốt Đẹp
6.2. Kittisaddaabbhuggamana
Rồi sáu vị Sát-đế-lỵ ấy đến tại chỗ Bà-la-môn Mahā Govinda ở, khi đến xong liền nói với Bà-la-môn Mahā Govinda (Ðại Ðiển Tôn)
Atha kho, bho, te cha khattiyā yena mahāgovindo brāhmaṇo tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā mahāgovindaṁ brāhmaṇaṁ etadavocuṁ:
Như thiện hữu Govinda là bạn hữu thân tình, thân ái, tâm đầu ý hiệp với vua Renu, cũng vậy Thiện hữu Mahā Govinda và bạn hữu thân tình, thân ái, tâm đầu ý hiệp với chúng tôi.
“yathā kho bhavaṁ govindo reṇussa rañño sahāyo piyo manāpo appaṭikūlo. Evameva kho bhavaṁ govindo amhākampi sahāyo piyo manāpo appaṭikūlo, anusāsatu no bhavaṁ govindo;
Thiện hữu Govinda hãy giáo hóa chúng tôi? Thiện hữu Govinda chớ có từ chối giáo hóa.
mā no bhavaṁ govindo anusāsaniyā paccabyāhāsī”ti.
Xin vâng, chư Thiện hữu. Thiện hữu Mahā Govinda trả lời cho sáu vị Sát-đế-lỵ này.
“Evaṁ, bho”ti kho mahāgovindo brāhmaṇo tesaṁ channaṁ khattiyānaṁ paccassosi.
Rồi Thiện hữu Mahā Govinda giáo hóa về vương chánh cho bảy vị Sát-đế-lỵ đã được phong vua, và Mahā Govinda dạy các chú thuật cho bảy vị triệu phú Bà-la-môn và bảy trăm vị tịnh hạnh.
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo satta ca rājāno khattiye muddhāvasitte rajje anusāsi, satta ca brāhmaṇamahāsāle satta ca nhātakasatāni mante vācesi.
Sau một thời gian, danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về Bà-la-môn Mahā Govinda:
Atha kho, bho, mahāgovindassa brāhmaṇassa aparena samayena evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggacchi:
Bà-la-môn Mahā Govinda tự thân thấy Phạm thiên; Bà-la-môn Mahā Govinda tự thân nói chuyện thảo luận, luận nghị với Phạm thiên.
“sakkhi mahāgovindo brāhmaṇo brahmānaṁ passati, sakkhi mahāgovindo brāhmaṇo brahmunā sākaccheti sallapati mantetī”ti.
Rồi Bà-la-môn Mahā Govinda suy nghĩ:
Atha kho, bho, mahāgovindassa brāhmaṇassa etadahosi:
Danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về ta:
“mayhaṁ kho evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:
Bà-la-môn Mahā Govinda tự thân thấy Phạm thiên; Bà-la-môn Mahā Govinda tự thân nói chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên.
‘sakkhi mahāgovindo brāhmaṇo brahmānaṁ passati, sakkhi mahāgovindo brāhmaṇo brahmunā sākaccheti sallapati mantetī’ti.
Nhưng ta không thấy Phạm thiên, ta không nói chuyện với Phạm thiên, không thảo luận với Phạm thiên, không nghị luận với Phạm thiên.
Na kho panāhaṁ brahmānaṁ passāmi, na brahmunā sākacchemi, na brahmunā sallapāmi, na brahmunā mantemi.
Ta có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng lớn tuổi, cả giáo thọ và đệ tử nói rằng:
Sutaṁ kho pana metaṁ brāhmaṇānaṁ vuddhānaṁ mahallakānaṁ ācariyapācariyānaṁ bhāsamānānaṁ:
Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm, người ấy sẽ thấy Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và nghị luận với Phạm thiên.
‘yo vassike cattāro māse paṭisallīyati, karuṇaṁ jhānaṁ jhāyati, so brahmānaṁ passati brahmunā sākaccheti brahmunā sallapati brahmunā mantetī’ti.
Vậy ta hãy sống tịnh cư trong bốn tháng mưa và tu tập thiền định về bi tâm”.
Yannūnāhaṁ vassike cattāro māse paṭisallīyeyyaṁ, karuṇaṁ jhānaṁ jhāyeyyan”ti.
Rồi Thiện hữu Bà-la-môn Mahā Govinda đi đến vua Renu, khi đến xong liền tâu với vua Renu:
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo yena reṇu rājā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā reṇuṁ rājānaṁ etadavoca:
Danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về Thần:
“mayhaṁ kho, bho, evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:
Bà-la-môn Mahā Govinda tự thân thấy được Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên.
‘sakkhi mahāgovindo brāhmaṇo brahmānaṁ passati, sakkhi mahāgovindo brāhmaṇo brahmunā sākaccheti sallapati mantetī’ti.
Nhưng Thần không thấy được Phạm thiên, không nói chuyện được với Phạm thiên, không thảo luận được với Phạm thiên, không luận nghị được với Phạm thiên.
Na kho panāhaṁ, bho, brahmānaṁ passāmi, na brahmunā sākacchemi, na brahmunā sallapāmi, na brahmunā mantemi.
Thần có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng, lớn tuổi nói: “Ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên.
Sutaṁ kho pana metaṁ brāhmaṇānaṁ vuddhānaṁ mahallakānaṁ ācariyapācariyānaṁ bhāsamānānaṁ: ‘yo vassike cattāro māse paṭisallīyati, karuṇaṁ jhānaṁ jhāyati, so brahmānaṁ passati, brahmunā sākaccheti brahmunā sallapati brahmunā mantetī’ti.
Nay Thần muốn sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, và tu tập thiền định về bi tâm.
Icchāmahaṁ, bho, vassike cattāro māse paṭisallīyituṁ, karuṇaṁ jhānaṁ jhāyituṁ;
Không một ai được đến gặp thần, trừ chỉ một người đem đồ ăn.
namhi kenaci upasaṅkamitabbo aññatra ekena bhattābhihārenā”ti.
Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì Khanh nghĩ là hợp thời.”
“Yassadāni bhavaṁ govindo kālaṁ maññatī”ti.
Rồi Bà-la-môn Mahā Govinda đến tại chỗ sáu vị Sát-đế-lỵ ở, khi đến xong liền nói với sáu vị Sát-đế-lỵ:
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo yena te cha khattiyā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te cha khattiye etadavoca:
Danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về tôi: “Bà-la-môn Mahā Govinda tự thân thấy được Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên”. Tôi không được thấy Phạm thiên, không nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm Thiên. Nhưng tôi có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng lớn tuổi, cả giáo thọ và đệ tử nói rằng: “Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và nghị luận với Phạm thiên”.
“mayhaṁ kho, bho, evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato: ‘sakkhi mahāgovindo brāhmaṇo brahmānaṁ passati, sakkhi mahāgovindo brāhmaṇo brahmunā sākaccheti sallapati mantetī’ti. Na kho panāhaṁ, bho, brahmānaṁ passāmi, na brahmunā sākacchemi, na brahmunā sallapāmi, na brahmunā mantemi. Sutaṁ kho pana metaṁ brāhmaṇānaṁ vuddhānaṁ mahallakānaṁ ācariyapācariyānaṁ bhāsamānānaṁ: ‘yo vassike cattāro māse paṭisallīyati, karuṇaṁ jhānaṁ jhāyati, so brahmānaṁ passati brahmunā sākaccheti brahmunā sallapati brahmunā mantetī’ti.
Nay tôi muốn sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm. Không một ai được đến gặp tôi, chỉ trừ một người đem đồ ăn.
Icchāmahaṁ, bho, vassike cattāro māse paṭisallīyituṁ, karuṇaṁ jhānaṁ jhāyituṁ. Namhi kenaci upasaṅkamitabbo aññatra ekena bhattābhihārenā”ti.
Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì Thiện hữu nghĩ là hợp thời.
“Yassadāni bhavaṁ govindo kālaṁ maññatī”ti.
Rồi Bà-la-môn Mahā Govinda đi đến chỗ bảy vị triệu phú Bà-la-môn và bảy trăm vị tịnh hạnh ở, khi đến xong liền nói với các vị này như sau:
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo yena te satta ca brāhmaṇamahāsālā satta ca nhātakasatāni tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te satta ca brāhmaṇamahāsāle satta ca nhātakasatāni etadavoca:
Chư Thiện hữu, danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về tôi: “Bà-la-môn Mahā Govinda tự thân thấy được Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên”. Nhưng tôi không thấy được Phạm thiên, không nói chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên. Tôi có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng lớn tuổi, cả giáo thọ và đệ tử đều nói rằng: “Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm, sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên”. Nay tôi muốn sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm, không một ai được đến gặp tôi, chỉ trừ một người đem đồ ăn.
“mayhaṁ kho, bho, evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato: ‘sakkhi mahāgovindo brāhmaṇo brahmānaṁ passati, sakkhi mahāgovindo brāhmaṇo brahmunā sākaccheti sallapati mantetī’ti. Na kho panāhaṁ, bho, brahmānaṁ passāmi, na brahmunā sākacchemi, na brahmunā sallapāmi, na brahmunā mantemi. Sutaṁ kho pana metaṁ brāhmaṇānaṁ vuddhānaṁ mahallakānaṁ ācariyapācariyānaṁ bhāsamānānaṁ: ‘yo vassike cattāro māse paṭisallīyati, karuṇaṁ jhānaṁ jhāyati, so brahmānaṁ passati, brahmunā sākaccheti, brahmunā sallapati, brahmunā mantetī’ti. Icchāmahaṁ, bho, vassike cattāro māse paṭisallīyituṁ, karuṇaṁ jhānaṁ jhāyituṁ. Namhi kenaci upasaṅkamitabbo aññatra ekena bhattābhihārenā”ti.
Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì Thiện hữu nghĩ là hợp thời.
“Yassadāni bhavaṁ govindo kālaṁ maññatī”ti.
Rồi Bà-la-môn Mahā Govinda đi đến bốn mươi vị phu nhân đồng đẳng của mình, khi đến xong liền nói với bốn mươi vị phu nhân đồng đẳng như sau:
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo yena cattārīsā bhariyā sādisiyo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā cattārīsā bhariyā sādisiyo etadavoca:
Chư Thiện hữu, danh tiếng tốt đẹp sau đây được truyền tụng về tôi: “Bà-la-môn Mahā Govinda tự thân thấy được Phạm thiên, tự thân nói chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên”. Nhưng tôi không được thấy Phạm thiên, tôi không nói chuyện, thảo luận, luận nghị với Phạm thiên. Tôi có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng, lớn tuổi, cả giáo thọ và đệ tử đều nói rằng: “Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và luận nghị với Phạm thiên”. Nay tôi muốn sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm, không một ai được đến gặp tôi, chỉ trừ một người đem đồ ăn.
“mayhaṁ kho, bhotī, evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato: ‘sakkhi mahāgovindo brāhmaṇo brahmānaṁ passati, sakkhi mahāgovindo brāhmaṇo brahmunā sākaccheti sallapati mantetī’ti. Na kho panāhaṁ, bhotī, brahmānaṁ passāmi, na brahmunā sākacchemi, na brahmunā sallapāmi, na brahmunā mantemi. Sutaṁ kho pana metaṁ brāhmaṇānaṁ vuddhānaṁ mahallakānaṁ ācariyapācariyānaṁ bhāsamānānaṁ: ‘yo vassike cattāro māse paṭisallīyati, karuṇaṁ jhānaṁ jhāyati, so brahmānaṁ passati, brahmunā sākaccheti, brahmunā sallapati, brahmunā mantetī’ti. Icchāmahaṁ, bhotī, vassike cattāro māse paṭisallīyituṁ, karuṇaṁ jhānaṁ jhāyituṁ. Namhi kenaci upasaṅkamitabbo aññatra ekena bhattābhihārenā”ti.
Này Thiện hữu Govinda, hãy làm những gì thiện hữu nghĩ là hợp thời.
“Yassadāni bhavaṁ govindo kālaṁ maññatī”ti.
Rồi Thiện hữu Mahā Govinda cho làm một hội đường mới về phương Ðông kinh thành, tịnh cư trong bốn tháng mưa và tu tập thiền định về bi tâm.
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo puratthimena nagarassa navaṁ sandhāgāraṁ kārāpetvā vassike cattāro māse paṭisallīyi, karuṇaṁ jhānaṁ jhāyi;
Không một ai đến gặp, trừ người đem đồ ăn.
nāssudha koci upasaṅkamati aññatra ekena bhattābhihārena.
Sau bốn tháng, sự thất vọng và sợ hãi sau đây khởi lên cho Bà-la-môn Mahā Govinda:
Atha kho, bho, mahāgovindassa brāhmaṇassa catunnaṁ māsānaṁ accayena ahudeva ukkaṇṭhanā ahu paritassanā:
“Ta có nghe các vị Bà-la-môn trưởng thượng, lớn tuổi, cả giáo thọ và đệ tử đều nói rằng:
“sutaṁ kho pana metaṁ brāhmaṇānaṁ vuddhānaṁ mahallakānaṁ ācariyapācariyānaṁ bhāsamānānaṁ:
Những ai sống tịnh cư trong bốn tháng mưa, tu tập thiền định về bi tâm, sẽ thấy được Phạm thiên, sẽ nói chuyện, thảo luận và nghị luận với Phạm thiên.
‘yo vassike cattāro māse paṭisallīyati, karuṇaṁ jhānaṁ jhāyati, so brahmānaṁ passati, brahmunā sākaccheti brahmunā sallapati brahmunā mantetī’ti.
Nhưng nay ta không thấy Phạm thiên, không nói chuyện với Phạm thiên, không thảo luận với Phạm thiên, không nghị luận với Phạm thiên”.
Na kho panāhaṁ brahmānaṁ passāmi, na brahmunā sākacchemi na brahmunā sallapāmi na brahmunā mantemī”ti.
6.3. Đàm Luận Với Phạm Thiên
6.3. Brahmunāsākacchā
Rồi Phạm thiên Sanaṅkumāra với tâm của mình biết được tâm của Bà-la-môn Mahā Govinda, như một người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, cũng vậy Phạm thiên biến mất ở Phạm thiên giới và hiện ra trước mặt Bà-la-môn Mahā Govinda.
Atha kho, bho, brahmā sanaṅkumāro mahāgovindassa brāhmaṇassa cetasā cetoparivitakkamaññāya—seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṁ vā bāhaṁ pasāreyya, pasāritaṁ vā bāhaṁ samiñjeyya; evameva—brahmaloke antarahito mahāgovindassa brāhmaṇassa sammukhe pāturahosi.
Rồi Bà-la-môn Mahā Govinda hoảng hốt, run sợ, lông tóc dựng ngược.
Atha kho, bho, mahāgovindassa brāhmaṇassa ahudeva bhayaṁ ahu chambhitattaṁ ahu lomahaṁso yathā taṁ adiṭṭhapubbaṁ rūpaṁ disvā.
Rồi Bà-la-môn Mahā Govinda thốt lên bài kệ sau đây với Phạm thiên Sanaṅkumāra (Thường Ðồng hình Phạm thiên):
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo bhīto saṁviggo lomahaṭṭhajāto brahmānaṁ sanaṅkumāraṁ gāthāya ajjhabhāsi:
Ôi đoan tướng quang vinh,
“Vaṇṇavā yasavā sirimā,
Thiện hữu thật là ai?
ko nu tvamasi mārisa;
Không biết nên hỏi Ngài.
Ajānantā taṁ pucchāma,
Ðể chúng tôi biết Ngài!
kathaṁ jānemu taṁ mayan”ti.
“Phạm thiên giới biết ta,
“Maṁ ve kumāraṁ jānanti,
Là Ðồng tử thường hằng!
brahmaloke sanantanaṁ;
Ta là bậc thiên vương,
Sabbe jānanti maṁ devā,
Hãy biết ta là vậy.”
evaṁ govinda jānahi”.
“Hãy đem đến sàng tọa,
“Āsanaṁ udakaṁ pajjaṁ,
Nước rửa chân, thục mật.
madhusākañca brahmuno;
Hiền giả muốn nhận gì,
Agghe bhavantaṁ pucchāma,
Hãy cho chúng tôi biết!”
agghaṁ kurutu no bhavaṁ”.
“Ta chấp nhận cúng vật,
“Paṭiggaṇhāma te agghaṁ,
Mà Ngươi vừa đề cập.
yaṁ tvaṁ govinda bhāsasi;
Dịp may nay đã đến,
Diṭṭhadhammahitatthāya,
Hãy hỏi điều Ngươi muốn.
samparāya sukhāya ca;
Vì hạnh phúc hiện tại,
Katāvakāso pucchassu,
Vì an lạc tương lai.”
yaṁ kiñci abhipatthitan”ti.
Rồi Bà-la-môn Mahā Govinda suy nghĩ: “Ðây là dịp may Phạm thiên Sanaṅkumāra dành cho ta. Ta nay hỏi Phạm thiên Sanaṅkumāra điều gì đã được ích lợi cho hiện tại và tương lai?”
Atha kho, bho, mahāgovindassa brāhmaṇassa etadahosi: “katāvakāso khomhi brahmunā sanaṅkumārena. Kiṁ nu kho ahaṁ brahmānaṁ sanaṅkumāraṁ puccheyyaṁ diṭṭhadhammikaṁ vā atthaṁ samparāyikaṁ vā”ti?
Rồi Bà-la-môn Mahā Govinda suy nghĩ: “Ta rất giỏi về những lợi ích hiện tại. Chính người khác cũng hỏi ta về những lợi ích hiện tại. Vậy ta hãy hỏi Phạm thiên Sanaṅkumāra lợi ích tương lai”.
Atha kho, bho, mahāgovindassa brāhmaṇassa etadahosi: “kusalo kho ahaṁ diṭṭhadhammikānaṁ atthānaṁ, aññepi maṁ diṭṭhadhammikaṁ atthaṁ pucchanti. Yannūnāhaṁ brahmānaṁ sanaṅkumāraṁ samparāyikaññeva atthaṁ puccheyyan”ti.
Rồi Ba-la-môn Mahā Govinda nói bài kệ sau đây với Phạm thiên Sanaṅkumāra:
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo brahmānaṁ sanaṅkumāraṁ gāthāya ajjhabhāsi:
Ta hỏi Phạm thiên Sanaṅkumāra,
“Pucchāmi brahmānaṁ sanaṅkumāraṁ,
Người khác đều muốn biết!
Kaṅkhī akaṅkhiṁ paravediyesu;
An trú tại chỗ nào, tu tập tại chỗ nào,
Katthaṭṭhito kimhi ca sikkhamāno,
Chứng quả bất tử Phạm thiên giới?
Pappoti macco amataṁ brahmalokan”ti.
“Này Ngươi Bà-la-môn, Ai bỏ ngã, ngã sở,
“Hitvā mamattaṁ manujesu brahme,
Tâm chuyên chú nhứt cảnh, Tu tập đại bi tâm,
Ekodibhūto karuṇedhimutto;
Thoát ly mọi xú uế, Lánh xa mọi tà dục,
Nirāmagandho virato methunasmā,
An trú tại đây, tu tập tại đây,
Etthaṭṭhito ettha ca sikkhamāno;
Chứng được quả bất tử, Chính tại Phạm thiên giới.”
Pappoti macco amataṁ brahmalokan”ti.
Từ bỏ ngã và ngã sở hữu, thưa Tôn giả, câu ấy tôi hiểu.
“‘Hitvā mamattan’ti ahaṁ, bhoto, ājānāmi.
Trong đời có người từ bỏ tài sản nhỏ hay từ bỏ tài sản lớn, từ bỏ vòng quyến thuộc nhỏ hay vòng quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Idhekacco appaṁ vā bhogakkhandhaṁ pahāya mahantaṁ vā bhogakkhandhaṁ pahāya appaṁ vā ñātiparivaṭṭaṁ pahāya mahantaṁ vā ñātiparivaṭṭaṁ pahāya kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbajati,
Thưa Tôn giả, như vậy ta hiểu nghĩa từ bỏ ngã và ngã sở hữu.
iti ‘hitvā mamattan’ti ahaṁ, bhoto, ājānāmi.
Tâm chuyên nhất cảnh, thưa Tôn giả, câu ấy tôi hiểu.
‘Ekodibhūto’ti ahaṁ, bhoto, ājānāmi.
Trong đời có người lựa một chỗ an trú thanh vắng, một khu rừng, một gốc cây, một ngọn núi, một hang cốc, một bãi tha ma, một sơn lâm, giữa trời không, một đống rơm.
Idhekacco vivittaṁ senāsanaṁ bhajati araññaṁ rukkhamūlaṁ pabbataṁ kandaraṁ giriguhaṁ susānaṁ vanapatthaṁ abbhokāsaṁ palālapuñjaṁ,
Thưa, Tôn giả, như vậy tôi hiểu nghĩa tâm chuyên nhất cảnh.
iti ‘ekodibhūto’ti ahaṁ, bhoto, ājānāmi.
Tu tập bi tâm, thưa Tôn giả, câu ấy tôi hiểu.
‘Karuṇedhimutto’ti ahaṁ, bhoto, ājānāmi.
Trong đời có người an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú, biến mãn với tâm câu hữu với bi quảng đại vô biên, không hận, không sân.
Idhekacco karuṇāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā viharati, tathā dutiyaṁ, tathā tatiyaṁ, tathā catutthaṁ. Iti uddhamadhotiriyaṁ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṁ lokaṁ karuṇāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā viharati.
Thưa Tôn giả, như vậy tôi hiểu nghĩa tu tập bi tâm.
Iti ‘karuṇedhimutto’ti ahaṁ, bhoto, ājānāmi.
Thưa Tôn giả, riêng câu nói về xú uế tôi không được hiểu.
Āmagandhe ca kho ahaṁ, bhoto, bhāsamānassa na ājānāmi.
Này Phạm thiên, trong loài người cái gì là xú uế?
Ke āmagandhā manujesu brahme,
Ðó là điều ở nơi đây tôi không hiểu. Tôn giả hãy nói đi!
Ete avidvā idha brūhi dhīra;
Loài người bị gì che, Bị trói buộc cái gì,
Kenāvaṭā vāti pajā kurutu,
Phải chịu sanh đọa xứ, Bị đóng cửa Phạm thiên?”
Āpāyikā nivutabrahmalokā”ti.
“Phẫn nộ và vọng ngữ, Gian manh và lừa đảo,
“Kodho mosavajjaṁ nikati ca dubbho,
Hà tiện và quá mạn, Tật đố và dục cầu,
Kadariyatā atimāno usūyā;
Nghi ngờ và hại người,
Icchā vivicchā paraheṭhanā ca,
Tham, sân, si kiêu mạn.
Lobho ca doso ca mado ca moho;
Những tánh này trói buộc, Khiến con người xú uế,
Etesu yuttā anirāmagandhā,
Phải chịu sanh đọa xứ, Bị đóng cửa Phạm thiên.”
Āpāyikā nivutabrahmalokā”ti.
Như tôi hiểu lời Tôn giả giải thích về các xú uế, chúng không dễ gì mà được điều phục, nếu phải sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
“Yathā kho ahaṁ, bhoto, āmagandhe bhāsamānassa ājānāmi. Te na sunimmadayā agāraṁ ajjhāvasatā. Pabbajissāmahaṁ, bho, agārasmā anagāriyan”ti.
Hiền giả Govinda, hãy làm gì Hiền giả xem là hợp thời.
“Yassadāni bhavaṁ govindo kālaṁ maññatī”ti.
6.4. Yết Kiến Đức Vua Reṇu
6.4. Reṇurājaāmantanā
Rồi Bà-la-môn Mahā Govinda đi đến chỗ vua Renu ở, khi đến xong liền tâu với vua Renu:
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo yena reṇu rājā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā reṇuṁ rājānaṁ etadavoca:
“Này Tôn giả, hãy tìm một phụ tá khác, vị này sẽ điều khiển quốc sự cho Tôn giả.
“aññaṁ dāni bhavaṁ purohitaṁ pariyesatu, yo bhoto rajjaṁ anusāsissati.
Tôi muốn xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Icchāmahaṁ, bho, agārasmā anagāriyaṁ pabbajituṁ.
Tôi được nghe Phạm thiên giải thích các xú uế, chúng tôi dễ gì mà được điều phục, nếu phải sống tại gia.
Yathā kho pana me sutaṁ brahmuno āmagandhe bhāsamānassa, te na sunimmadayā agāraṁ ajjhāvasatā.
Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Pabbajissāmahaṁ, bho, agārasmā anagāriyan”ti.
“Thần xin tâu Ngài rõ.
“Āmantayāmi rājānaṁ,
Vua Renu quốc chủ:
reṇuṁ bhūmipatiṁ ahaṁ;
Hãy biết quốc độ Ngài,
Tvaṁ pajānassu rajjena,
Thần không thiết chức vụ.
nāhaṁ porohicce rame”.
“Nếu Khanh thiếu dục lạc,
“Sace te ūnaṁ kāmehi,
Ta cho Khanh đầy đủ!
ahaṁ paripūrayāmi te;
Nếu có ai hại Khanh,
Yo taṁ hiṁsati vāremi,
Quốc chủ, ta ngăn chận.
bhūmisenāpati ahaṁ;
Khanh là cha, ta con,
Tuvaṁ pitā ahaṁ putto,
Khanh chớ bỏ rơi ta.”
mā no govinda pājahi”.
“Thần không thiếu dục lạc
“Namatthi ūnaṁ kāmehi,
Không có ai hại thần.
hiṁsitā me na vijjati;
Vì nghe bậc phi nhân,
Amanussavaco sutvā,
Thần không thiết gia đình.”
tasmāhaṁ na gahe rame”.
“Phi nhân ấy là ai,
“Amanusso kathaṁvaṇṇo,
Vị ấy đã nói gì,
kiṁ te atthaṁ abhāsatha;
Khanh nghe, bỏ gia đình,
Yañca sutvā jahāsi no,
Bỏ ta, bỏ tất cả?”
gehe amhe ca kevalī”.
“Trước kia ở nơi đây,
“Upavutthassa me pubbe,
Lòng thần chỉ nguyện cầu
yiṭṭhukāmassa me sato;
Lo đốt nén lửa thiêng,
Aggi pajjalito āsi,
Và rải cỏ cát tường (Kusa).
kusapattaparitthato.
Nay Phạm thiên hiện ra,
Tato me brahmā pāturahu,
Hiện từ Phạm thiên giới,
brahmalokā sanantano;
Trả lời câu hỏi thần,
So me pañhaṁ viyākāsi,
Nghe xong thần bỏ nhà.”
taṁ sutvā na gahe rame”.
“Này Khanh Govinda,
“Saddahāmi ahaṁ bhoto,
Ta tin lời Khanh nói!
yaṁ tvaṁ govinda bhāsasi;
Ðược nghe bậc phi nhân,
Amanussavaco sutvā,
Làm sao làm khác được?
kathaṁ vattetha aññathā.
Ta sẽ theo gương Khanh,
Te taṁ anuvattissāma,
Bậc thầy của chúng ta.
satthā govinda no bhavaṁ;
Như hòn ngọc lưu ly,
Maṇi yathā veḷuriyo,
Không tỳ vết, cấu uế,
akāco vimalo subho;
Thật trong sạch như vậy,
Evaṁ suddhā carissāma,
Ta theo giáo lý Người!
govindassānusāsaneti.
Nếu Thiện hữu Govinda xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, thời tôi cũng xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Sace bhavaṁ govindo agārasmā anagāriyaṁ pabbajissati, mayampi agārasmā anagāriyaṁ pabbajissāma.
Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.”
Atha yā te gati, sā no gati bhavissatī”ti.
6.5. Yết Kiến Sáu Vị Sát-Đế-Lị
6.5. Chakhattiyaāmantanā
Rồi Bà-la-môn Mahā Govinda đi đến chỗ sáu vị Sát-đế-lỵ ở, khi đến xong liền nói với sáu vị ấy như sau:
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo yena te cha khattiyā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te cha khattiye etadavoca:
Chư Hiền giả, hãy tìm một vị phụ tá khác. Vị này sẽ điều khiển quốc sự cho quý vị Hiền giả. Tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế, chúng không dễ gì được điều phục, nếu phải sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!
“aññaṁ dāni bhavanto purohitaṁ pariyesantu, yo bhavantānaṁ rajje anusāsissati. Icchāmahaṁ, bho, agārasmā anagāriyaṁ pabbajituṁ. Yathā kho pana me sutaṁ brahmuno āmagandhe bhāsamānassa, te na sunimmadayā agāraṁ ajjhāvasatā. Pabbajissāmahaṁ, bho, agārasmā anagāriyan”ti.
Rồi sáu vị Sát-đế-lỵ đi qua một bên và thảo luận như sau:
Atha kho, bho, te cha khattiyā ekamantaṁ apakkamma evaṁ samacintesuṁ:
Những người Bà-la-môn này rất tham tài sản. Chúng ta hãy lấy tài sản để dụ dỗ Bà-la-môn này.
“ime kho brāhmaṇā nāma dhanaluddhā. Yannūna mayaṁ mahāgovindaṁ brāhmaṇaṁ dhanena sikkheyyāmā”ti.
Các vị này đến tại chỗ của Bà-la-môn Mahā Govinda và nói:
Te mahāgovindaṁ brāhmaṇaṁ upasaṅkamitvā evamāhaṁsu:
Thiện hữu, tài sản trong bảy quốc độ này rất là phong phú, Thiện hữu muốn bao nhiêu, Thiện hữu cứ lấy bấy nhiêu.
“saṁvijjati kho, bho, imesu sattasu rajjesu pahūtaṁ sāpateyyaṁ, tato bhoto yāvatakena attho, tāvatakaṁ āharīyatan”ti.
Thôi thôi, chư Thiện hữu! Tài sản của tôi rất là phong phú, nhờ sự giúp đỡ của quý vị. Nay tôi đã bỏ mọi danh lợi ấy để xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế, chúng không dễ gì được điều phục, nếu phải sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
“Alaṁ, bho! mamapidaṁ pahūtaṁ sāpateyyaṁ bhavantānaṁyeva vāhasā. Tamahaṁ sabbaṁ pahāya agārasmā anagāriyaṁ pabbajissāmi. Yathā kho pana me sutaṁ brahmuno āmagandhe bhāsamānassa, te na sunimmadayā agāraṁ ajjhāvasatā. Pabbajissāmahaṁ, bho, agārasmā anagāriyan”ti.
Rồi sáu vị Sát-đế-lỵ, đi qua một bên và thảo luận như sau:
Atha kho, bho, te cha khattiyā ekamantaṁ apakkamma evaṁ samacintesuṁ:
“Những người Bà-la-môn này rất tham đàn bà. Chúng tôi hãy lấy đàn bà để dụ dỗ Bà-la-môn này.
“ime kho brāhmaṇā nāma itthiluddhā. Yannūna mayaṁ mahāgovindaṁ brāhmaṇaṁ itthīhi sikkheyyāmā”ti.
Các vị này đến tại chỗ của Bà-la-môn Mahā Govinda và nói:
Te mahāgovindaṁ brāhmaṇaṁ upasaṅkamitvā evamāhaṁsu:
Thiện hữu, đàn bà trong bảy quốc độ này rất nhiều. Thiện hữu muốn bao nhiêu, Thiện hữu cứ lấy bấy nhiêu.
“saṁvijjanti kho, bho, imesu sattasu rajjesu pahūtā itthiyo, tato bhoto yāvatikāhi attho, tāvatikā ānīyatan”ti.
Thôi thôi, chư Thiện hữu, tôi có đến bốn mươi vị phu nhân, thảy đều đồng đẳng. Tôi nay muốn từ bỏ tất cả các vị ấy để xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế, chúng không dễ gì được điều phục, nếu sống tại gia. Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
“Alaṁ, bho, mamapimā cattārīsā bhariyā sādisiyo. Tāpāhaṁ sabbā pahāya agārasmā anagāriyaṁ pabbajissāmi. Yathā kho pana me sutaṁ brahmuno āmagandhe bhāsamānassa, te na sunimmadayā agāraṁ ajjhāvasatā. Pabbajissāmahaṁ, bho, agārasmā anagāriyanti”.
Nếu Thiện hữu Govinda sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, thì chúng tôi cũng sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
“Sace bhavaṁ govindo agārasmā anagāriyaṁ pabbajissati, mayampi agārasmā anagāriyaṁ pabbajissāma, atha yā te gati, sā no gati bhavissatī”ti.
“Nếu từ bỏ dục vọng,
“Sace jahatha kāmāni,
Mà kẻ phàm say đắm.
yattha satto puthujjano;
Tinh cần và cương quyết,
Ārambhavho daḷhā hotha,
Vững chắc trong nhẫn lực,
khantībalasamāhitā.
Ðó là con đường chánh,
Esa maggo ujumaggo,
Con đường hướng vô thượng,
esa maggo anuttaro;
Ðược Thiện nhân hộ trì,
Saddhammo sabbhi rakkhito,
Sanh lên cõi Phạm thiên.
brahmalokūpapattiyā”ti.
Do vậy, Thiện hữu Govinda hãy chờ bảy năm nữa,
“Tena hi bhavaṁ govindo satta vassāni āgametu.
sau bảy năm chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi đi.
Sattannaṁ vassānaṁ accayena mayampi agārasmā anagāriyaṁ pabbajissāma, atha yā te gati, sā no gati bhavissatī”ti.
Chư Thiện hữu, bảy năm quá lâu dài. Tôi không thể chờ các Hiền giả đến bảy năm.
“Aticiraṁ kho, bho, satta vassāni, nāhaṁ sakkomi, bhavante, satta vassāni āgametuṁ.
Ai có thể biết được về mạng sống?
Ko nu kho pana, bho, jānāti jīvitānaṁ.
Chúng ta phải bước đi, hướng về tương lai. Chúng ta phải học nhờ tuệ tri. Việc thiện chúng ta cần phải làm. Phạm hạnh chúng ta cần phải thực hành. Không ai tránh khỏi sự chết khi phải sanh ra.
Gamanīyo samparāyo, mantāyaṁ boddhabbaṁ, kattabbaṁ kusalaṁ, caritabbaṁ brahmacariyaṁ, natthi jātassa amaraṇaṁ.
Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không gì được điều phục nếu sống tại gia.
Yathā kho pana me sutaṁ brahmuno āmagandhe bhāsamānassa, te na sunimmadayā agāraṁ ajjhāvasatā,
Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
pabbajissāmahaṁ, bho, agārasmā anagāriyan”ti.
Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ trong sáu năm nữa…(trùng)
“Tena hi bhavaṁ govindo chabbassāni āgametu …pe…
hãy chờ trong năm năm nữa…
pañca vassāni āgametu …
hãy chờ trong bốn năm nữa…
cattāri vassāni āgametu …
hãy chờ trong ba năm nữa…
tīṇi vassāni āgametu …
hãy chờ trong hai năm nữa…
dve vassāni āgametu …
hãy chờ trong một năm nữa. Sau một năm chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.”
ekaṁ vassaṁ āgametu, ekassa vassassa accayena mayampi agārasmā anagāriyaṁ pabbajissāma, atha yā te gati, sā no gati bhavissatī”ti.
Chư Thiện hữu, một năm quá lâu dài. Tôi không thể chờ các Hiền giả đến một năm.
“Aticiraṁ kho, bho, ekaṁ vassaṁ, nāhaṁ sakkomi bhavante ekaṁ vassaṁ āgametuṁ.
Ai có thể biết được về mạng sống?
Ko nu kho pana, bho, jānāti jīvitānaṁ?
Chúng ta phải bước đi, hướng về tương lai. Chúng ta phải học nhờ tuệ tri. Việc thiện chúng ta cần phải làm. Phạm hạnh, chúng ta cần phải thực hành. Không ai tránh khỏi sự chết khi phải sanh ra.
Gamanīyo samparāyo, mantāyaṁ boddhabbaṁ, kattabbaṁ kusalaṁ, caritabbaṁ brahmacariyaṁ, natthi jātassa amaraṇaṁ.
Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà được điều phục, nếu sống tại gia.
Yathā kho pana me sutaṁ brahmuno āmagandhe bhāsamānassa, te na sunimmadayā agāraṁ ajjhāvasatā,
Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Pabbajissāmahaṁ, bho, agārasmā anagāriyan”ti.
Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ trong bảy tháng nữa. Sau bảy tháng chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
“Tena hi bhavaṁ govindo satta māsāni āgametu, sattannaṁ māsānaṁ accayena mayampi agārasmā anagāriyaṁ pabbajissāma, atha yā te gati, sā no gati bhavissatī”ti.
Chư Thiện hữu, bảy tháng quá lâu dài. Tôi không thể chờ các Hiền giả đến bảy tháng.
“Aticiraṁ kho, bho, satta māsāni, nāhaṁ sakkomi bhavante satta māsāni āgametuṁ.
Ai có thể biết được về mạng sống?
Ko nu kho pana, bho, jānāti jīvitānaṁ.
Chúng ta phải bước đi, hướng về tương lai. Chúng ta phải học nhờ tuệ tri. Việc thiện chúng ta cần phải làm. Phạm hạnh chúng ta cần phải thực hành. Không ai tránh khỏi sự chết khi phải sanh ra.
Gamanīyo samparāyo, mantāyaṁ boddhabbaṁ, kattabbaṁ kusalaṁ, caritabbaṁ brahmacariyaṁ, natthi jātassa amaraṇaṁ.
Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà điều phục, nếu sống tại gia.
Yathā kho pana me sutaṁ brahmuno āmagandhe bhāsamānassa, te na sunimmadayā agāraṁ ajjhāvasatā,
Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
pabbajissāmahaṁ, bho, agārasmā anagāriyan”ti.
Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ sáu tháng nữa…
“Tena hi bhavaṁ govindo cha māsāni āgametu …pe…
hãy chờ năm tháng nữa…
pañca māsāni āgametu …
hãy chờ bốn tháng nữa…
cattāri māsāni āgametu …
hãy chờ ba tháng nữa…
tīṇi māsāni āgametu …
hãy chờ hai tháng nữa…
dve māsāni āgametu …
hãy chờ một tháng nữa…
ekaṁ māsaṁ āgametu …
hãy chờ nửa tháng nữa. Sau nửa tháng, chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
addhamāsaṁ āgametu, addhamāsassa accayena mayampi agārasmā anagāriyaṁ pabbajissāma, atha yā te gati, sā no gati bhavissatī”ti.
“Chư Thiện hữu, nửa tháng quá lâu dài, tôi không thể chờ các Hiền giả đến nửa tháng.
“Aticiraṁ kho, bho, addhamāso, nāhaṁ sakkomi bhavante addhamāsaṁ āgametuṁ.
Ai có thể biết được về mạng sống?
Ko nu kho pana, bho, jānāti jīvitānaṁ.
Chúng ta phải bước đi, hướng về tương lai. Chúng ta phải học nhờ tuệ tri. Việc thiện chúng ta cần phải làm. Phạm hạnh chúng ta cần phải thực hành. Không ai tránh khỏi sự chết khi phải sanh ra.
Gamanīyo samparāyo, mantāyaṁ boddhabbaṁ, kattabbaṁ kusalaṁ, caritabbaṁ brahmacariyaṁ, natthi jātassa amaraṇaṁ.
Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà điều phục, nếu sống tại gia.
Yathā kho pana me sutaṁ brahmuno āmagandhe bhāsamānassa, te na sunimmadayā agāraṁ ajjhāvasatā,
Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.”
pabbajissāmahaṁ, bho, agārasmā anagāriyan”ti.
“Vậy Thiện hữu Govinda, hãy chờ cho bảy ngày cho đến khi chúng tôi giao quốc độ cho các người con và người anh của chúng tôi. Sau bảy ngày, chúng tôi sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.”
“Tena hi bhavaṁ govindo sattāhaṁ āgametu, yāva mayaṁ sake puttabhātaro rajjena anusāsissāma, sattāhassa accayena mayampi agārasmā anagāriyaṁ pabbajissāma, atha yā te gati, sā no gati bhavissatī”ti.
Chư Thiện hữu, bảy ngày không lâu gì. Tôi sẽ chờ chư Thiện hữu cho đến bảy ngày.
“Na ciraṁ kho, bho, sattāhaṁ, āgamessāmahaṁ bhavante sattāhan”ti.
6.6. Gặp Gỡ Các Bà-La-Môn
6.6. Brāhmaṇamahāsālādīnaṁāmantanā
Rồi Bà-la-môn Mahā Govinda đi đến chỗ bảy triệu phú Bà-la-môn và bảy trăm vị tịnh hạnh ở, khi đến xong liền nói với bảy vị triệu phú Bà-la-môn và bảy trăm vị tịnh hạnh như sau:
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo yena te satta ca brāhmaṇamahāsālā satta ca nhātakasatāni tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā te satta ca brāhmaṇamahāsāle satta ca nhātakasatāni etadavoca:
“Này các Thiện hữu, hãy tìm một vị giáo thọ khác, vị ấy sẽ dạy các thần chú cho chư Thiện hữu,
“aññaṁ dāni bhavanto ācariyaṁ pariyesantu, yo bhavantānaṁ mante vācessati.
nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Icchāmahaṁ, bho, agārasmā anagāriyaṁ pabbajituṁ.
Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà điều phục, nếu sống tại gia.
Yathā kho pana me sutaṁ brahmuno āmagandhe bhāsamānassa. Te na sunimmadayā agāraṁ ajjhāvasatā,
Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
pabbajissāmahaṁ, bho, agārasmā anagāriyan”ti.
Thiện hữu Bà-la-môn Govinda, chớ có xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
“Mā bhavaṁ govindo agārasmā anagāriyaṁ pabbaji.
Này Thiện hữu, xuất gia ít có quyền thế, và ít có lợi dưỡng.
Pabbajjā, bho, appesakkhā ca appalābhā ca;
Làm người Bà-la-môn có nhiều quyền thế và có nhiều lợi dưỡng.
brahmaññaṁ mahesakkhañca mahālābhañcā”ti.
Chư Thiện hữu chớ có nói như vậy: “Xuất gia ít có quyền thế và ít có lợi dưỡng. Làm người Bà-la-môn có nhiều quyền thế và có nhiều lợi dưỡng”
“Mā bhavanto evaṁ avacuttha: ‘pabbajjā appesakkhā ca appalābhā ca, brahmaññaṁ mahesakkhañca mahālābhañcā’ti.
Chư Thiện hữu, có ai nhiều quyền thế và nhiều lợi dưỡng hơn tôi.
Ko nu kho, bho, aññatra mayā mahesakkhataro vā mahālābhataro vā.
Tôi nay là vua các vị vua, là Phạm thiên cho các vị Bà-la-môn, và là vị Trời cho các Gia chủ
Ahañhi, bho, etarahi rājāva raññaṁ brahmāva brāhmaṇānaṁ devatāva gahapatikānaṁ.
và tất cả điều này, tôi muốn vất bỏ, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Tamahaṁ sabbaṁ pahāya agārasmā anagāriyaṁ pabbajissāmi.
Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà điều phục nếu sống tại gia.
Yathā kho pana me sutaṁ brahmuno āmagandhe bhāsamānassa, te na sunimmadayā agāraṁ ajjhāvasatā.
Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình!
Pabbajissāmahaṁ, bho, agārasmā anagāriyan”ti.
Nếu Thiện hữu Govinda xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chúng tôi cũng sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Thiện hữu đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.”
“Sace bhavaṁ govindo agārasmā anagāriyaṁ pabbajissati, mayampi agārasmā anagāriyaṁ pabbajissāma, atha yā te gati, sā no gati bhavissatī”ti.
6.7. Gặp Gỡ Các Vị Phu Nhân
6.7. Bhariyānaṁāmantanā
Rồi Bà-la-môn Mahā Govinda đi đến bốn mươi vị phu nhân đồng đẳng, khi đến xong liền nói với bốn mươi vị phu nhân đồng đẳng như sau:
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo yena cattārīsā bhariyā sādisiyo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā cattārīsā bhariyā sādisiyo etadavoca:
Các phu nhân, nếu muốn hãy trở về gia đình của mình hay gia đình quyến thuộc và tìm một người chồng khác.
“yā bhotīnaṁ icchati, sakāni vā ñātikulāni gacchatu aññaṁ vā bhattāraṁ pariyesatu.
Tôi nay muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Icchāmahaṁ, bhotī, agārasmā anagāriyaṁ pabbajituṁ.
Tôi được nghe Phạm thiên giải thích về các xú uế. Chúng không dễ gì mà được điều phục, nếu sống tại gia.
Yathā kho pana me sutaṁ brahmuno āmagandhe bhāsamānassa, te na sunimmadayā agāraṁ ajjhāvasatā.
Nay tôi muốn xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Pabbajissāmahaṁ, bhotī, agārasmā anagāriyan”ti.
Ngài là người quyến thuộc của chúng tôi, người quyến thuộc mà chúng tôi ao ước. Ngài là chồng của chúng tôi, người chồng mà chúng tôi ao ước.
“Tvaññeva no ñāti ñātikāmānaṁ, tvaṁ pana bhattā bhattukāmānaṁ.
Nếu Tôn giả Govinda xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, chúng tôi cũng sẽ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chỗ nào Tôn giả đi, chỗ ấy chúng tôi sẽ đi.
Sace bhavaṁ govindo agārasmā anagāriyaṁ pabbajissati, mayampi agārasmā anagāriyaṁ pabbajissāma, atha yā te gati, sā no gati bhavissatī”ti.
6.8. Đại Điển Tôn Xuất Gia
6.8. Mahāgovindapabbajjā
Rồi Bà-la-môn Mahā Govinda, sau bảy ngày liền cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Atha kho, bho, mahāgovindo brāhmaṇo tassa sattāhassa accayena kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbaji.
Sau khi Bà-la-môn Mahā Govinda xuất gia, bảy vị Sát-đế-lỵ được làm lễ quán đảnh lên vương vị, bảy vị Bà-la-môn triệu phú, bảy trăm vị tịnh hạnh, bốn mươi vị phu nhân đồng đẳng, vài ngàn vị Sát-đế-lỵ, vài ngàn vị Bà-la-môn, vài ngàn cư sĩ, và một số thiếu phụ trẻ từ các cư xá thiếu phụ, những vị này đều cạo bỏ râu tóc, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình theo Bà-la-môn Mahā Govinda.
Pabbajitaṁ pana mahāgovindaṁ brāhmaṇaṁ satta ca rājāno khattiyā muddhāvasittā satta ca brāhmaṇamahāsālā satta ca nhātakasatāni cattārīsā ca bhariyā sādisiyo anekāni ca khattiyasahassāni anekāni ca brāhmaṇasahassāni anekāni ca gahapatisahassāni anekehi ca itthāgārehi itthiyo kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā mahāgovindaṁ brāhmaṇaṁ agārasmā anagāriyaṁ pabbajitaṁ anupabbajiṁsu.
Và được bao vây bởi hội chúng như vậy, Bà-la-môn Mahā Govinda du hành đi qua làng, qua quận, qua các đô thị.
Tāya sudaṁ, bho, parisāya parivuto mahāgovindo brāhmaṇo gāmanigamarājadhānīsu cārikaṁ carati.
Và đến tại làng nào, hay quận nào, hay đô thị nào, Bà-la-môn Mahā Govinda được xem là vua các vị vua, là Phạm thiên cho các Bà-la-môn, là vị Trời cho các cư sĩ.
Yaṁ kho pana, bho, tena samayena mahāgovindo brāhmaṇo gāmaṁ vā nigamaṁ vā upasaṅkamati, tattha rājāva hoti raññaṁ, brahmāva brāhmaṇānaṁ, devatāva gahapatikānaṁ.
Trong thời gian ấy nếu có người nào nhảy mũi hay trượt chân. Người ấy liền nói:
Tena kho pana samayena manussā khipanti vā upakkhalanti vā. Te evamāhaṁsu:
“Ðảnh lễ Bà-la-môn Mahā Govinda! Ðảnh lễ vị phụ tá bảy quốc độ!”
“namatthu mahāgovindassa brāhmaṇassa, namatthu satta purohitassā”ti.
Bà-la-môn Mahā Govinda an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú, biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân.
Mahāgovindo, bho, brāhmaṇo mettāsahagatena cetasā ekaṁ disaṁ pharitvā vihāsi, tathā dutiyaṁ, tathā tatiyaṁ, tathā catutthaṁ. Iti uddhamadho tiriyaṁ sabbadhi sabbattatāya sabbāvantaṁ lokaṁ mettāsahagatena cetasā vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena pharitvā vihāsi.
Bà-la-môn Mahā Govinda, biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi…
Karuṇāsahagatena cetasā …pe…
với tâm câu hữu với hỷ…
muditāsahagatena cetasā …pe…
với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên, không hận, không sân.
upekkhāsahagatena cetasā …pe… abyāpajjena pharitvā vihāsi.
Và vị ấy dạy cho các đệ tử con đường đưa đến sự thân hữu với Phạm thiên giới.
Sāvakānañca brahmalokasahabyatāya maggaṁ desesi.
Và tất cả những vị nào, trong thời ấy là đệ tử của Bà-la-môn Mahā Govinda đều hiểu được toàn diện giáo lý của Bà-la-môn Mahā Govinda.
Ye kho pana, bho, tena samayena mahāgovindassa brāhmaṇassa sāvakā sabbenasabbaṁ sāsanaṁ ājāniṁsu.
Những vị này, khi thân hoại, mạng chung đều được sanh lên thiện thú, Phạm thiên giới.
Te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ brahmalokaṁ upapajjiṁsu.
Những vị nào không hiểu một cách toàn diện tất cả giáo lý, sau khi thân hoại, mạng chung, một số được sanh làm thân hữu với chư Thiên ở Tha Hóa Tự Tại thiên,
Ye na sabbenasabbaṁ sāsanaṁ ājāniṁsu, te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā appekacce paranimmitavasavattīnaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapajjiṁsu;
một số được sanh làm thân hữu với chư Thiên ở Hóa Lạc thiên,
appekacce nimmānaratīnaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapajjiṁsu;
một số được sanh làm thân hữu với chư Thiên ở Đâu Suất thiên;
appekacce tusitānaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapajjiṁsu;
một số được sanh làm thân hữu với chư Thiên ở Dạ-ma thiên,
appekacce yāmānaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapajjiṁsu;
một số được sanh làm thân hữu với chư Thiên ở Tam thập tam thiên,
appekacce tāvatiṁsānaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapajjiṁsu;
một số được sanh làm thân hữu với Tứ Thiên vương thiên.
appekacce cātumahārājikānaṁ devānaṁ sahabyataṁ upapajjiṁsu;
Cho đến những vị phải thành tựu các thân thấp kém nhất, cũng được thành tựu thân Gandhabba (Càn-thát-bà).
ye sabbanihīnaṁ kāyaṁ paripūresuṁ te gandhabbakāyaṁ paripūresuṁ.
Như vậy tất cả những thiện nam tử đã xuất gia không phải vô hiệu, không phải trống không, trái lại thật sự có hiệu quả, có tiến bộ.
Iti kho, bho, sabbesaṁyeva tesaṁ kulaputtānaṁ amoghā pabbajjā ahosi avañjhā saphalā saudrayā’ti.
Thế Tôn có nhớ không?
Sarati taṁ bhagavā”ti?
Này Pañcasikha, Ta có nhớ.
“Sarāmahaṁ, pañcasikha.
Ta thuở ấy là Mahā Govinda.
Ahaṁ tena samayena mahāgovindo brāhmaṇo ahosiṁ.
Ta dạy cho các đệ tử của Ta con đường đưa đến sự thân hữu ở Phạm thiên quốc.
Ahaṁ tesaṁ sāvakānaṁ brahmalokasahabyatāya maggaṁ desesiṁ.
Nhưng này Pañcasikha, con đường phạm hạnh ấy không đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Con đường ấy chỉ đưa sanh lên cõi Phạm thiên.
Taṁ kho pana me, pañcasikha, brahmacariyaṁ na nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṁvattati, yāvadeva brahmalokūpapattiyā.
Này Pancasikha, con đường phạm hạnh của Ta hoàn toàn đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn.
Idaṁ kho pana me, pañcasikha, brahmacariyaṁ ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṁvattati.
Này Pancasikha, con đường phạm hạnh của Ta hoàn toàn đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn là gì?
Katamañca taṁ, pañcasikha, brahmacariyaṁ ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṁvattati?
Ðó là con đường Thánh đạo tám ngành, tức là:
Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo.
Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh.
Seyyathidaṁ—sammādiṭṭhi sammāsaṅkappo sammāvācā sammākammanto sammāājīvo sammāvāyāmo sammāsati sammāsamādhi.
Này Pañcasikha, con đường phạm hạnh này hoàn toàn đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn.
Idaṁ kho taṁ, pañcasikha, brahmacariyaṁ ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṁvattati.
Này Pañcasikha, những vị đệ tử nào đã hiểu được toàn diện tất cả giáo lý của Ta, những vị ấy trừ diệt các lậu hoặc, vô lậu, tự mình hiện chứng thắng trí giác ngộ, sống an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát.
Ye kho pana me, pañcasikha, sāvakā sabbenasabbaṁ sāsanaṁ ājānanti, te āsavānaṁ khayā anāsavaṁ cetovimuttiṁ paññāvimuttiṁ diṭṭheva dhamme sayaṁ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharanti;
Trong những vị không hiểu được toàn diện tất cả giáo lý của Ta, một số những vị ấy, diệt trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh (lên Thiên giới) và ở tại chỗ ấy được nhập Niết-bàn, không phải sanh lại thế giới này.
ye na sabbenasabbaṁ sāsanaṁ ājānanti, te pañcannaṁ orambhāgiyānaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā opapātikā honti tattha parinibbāyino anāvattidhammā tasmā lokā.
Trong những vị không hiểu được toàn diện tất cả giáo lý của Ta, một trong những vị ấy diệt trừ ba kiết sử, làm nhẹ bớt tham, sân, si, thành bậc Nhất lai, chỉ phải sanh vào thế giới này một lần nữa rồi diệt tận khổ đau.
Ye na sabbenasabbaṁ sāsanaṁ ājānanti, appekacce tiṇṇaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā rāgadosamohānaṁ tanuttā sakadāgāmino honti sakideva imaṁ lokaṁ āgantvā dukkhassantaṁ karissanti.
Trong những vị này không hiểu được toàn diện tất cả giáo lý của Ta, một số những vị ấy từ diệt ba kiết sử, thành bậc Dự lưu, không còn phải sanh vào đọa xứ, nhất định chứng quả Bồ-đề.
Ye na sabbenasabbaṁ sāsanaṁ ājānanti, appekacce tiṇṇaṁ saṁyojanānaṁ parikkhayā sotāpannā honti avinipātadhammā niyatā sambodhiparāyaṇā.
Này Pañcasikha, như vậy tất cả những thiện nam tử đã xuất gia, không phải vô hiệu, không phải trống không, trái lại thật sự có hiệu quả, có tiến bộ.
Iti kho, pañcasikha, sabbesaṁyeva imesaṁ kulaputtānaṁ amoghā pabbajjā avañjhā saphalā saudrayā”ti.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Idamavoca bhagavā.
Pañcasikha, con của Càn-thát-bà, sung sướng, hoan hỷ nghe lời dạy của Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, thân phía hữu hướng về Ngài và biến mất tại chỗ.
Attamano pañcasikho gandhabbaputto bhagavato bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā tatthevantaradhāyīti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt