Trường Bộ 12
Dīgha Nikāya 12
Kinh Lohicca
Lohiccasutta
Như vậy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời đức Thế Tôn đang đi du hành tại nước Kosala (Câu-tát-la) cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, và đến tại Sālavatikā (một làng có dãy cây tala bao bọc).
ekaṁ samayaṁ bhagavā kosalesu cārikaṁ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ pañcamattehi bhikkhusatehi yena sālavatikā tadavasari.
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Lohicca ở tại Sālavatikā, một chỗ dân cư đông đúc, cây cỏ, ao nước, ngũ cốc phong phú, vốn là đất đai của vua, sau vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) cấp cho để hưởng một phần lợi tức.
Tena kho pana samayena lohicco brāhmaṇo sālavatikaṁ ajjhāvasati sattussadaṁ satiṇakaṭṭhodakaṁ sadhaññaṁ rājabhoggaṁ raññā pasenadinā kosalena dinnaṁ rājadāyaṁ brahmadeyyaṁ.
Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Lohicca khởi lên ác kiến sau đây:
Tena kho pana samayena lohiccassa brāhmaṇassa evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ hoti:
“Ở đời, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn chứng được thiện pháp, sau khi chứng được thiện pháp không nên nói cho người khác biết, vì có ai lại làm giúp cho ai được?
idha samaṇo vā brāhmaṇo vā kusalaṁ dhammaṁ adhigaccheyya, kusalaṁ dhammaṁ adhigantvā na parassa āroceyya, kiñhi paro parassa karissati.
Ví như một người sau khi cắt sợi dây cũ trói buộc, lại tự làm một sợi dây mới khác nữa.
Seyyathāpi nāma purāṇaṁ bandhanaṁ chinditvā aññaṁ navaṁ bandhanaṁ kareyya;
Ta nói sự thành tựu là ác pháp, tham pháp vì có ai lại làm giúp cho ai được?”.
”evaṁ sampadamidaṁ pāpakaṁ lobhadhammaṁ vadāmi, kiñhi paro parassa karissatī”ti.
Bà-la-môn Lohicca nghe đồn:
Assosi kho lohicco brāhmaṇo:
“Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, đang du hành tại nước Kosala, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, nay đã đến Sālavatikā.
samaṇo khalu, bho, gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito kosalesu cārikaṁ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ pañcamattehi bhikkhusatehi sālavatikaṁ anuppatto.
Những tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Sa-môn Gotama:
Taṁ kho pana bhavantaṁ gotamaṁ evaṁ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:
“Ngài là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
‘itipi so bhagavā arahaṁ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṁ buddho bhagavā’.
Ngài đã tự chứng ngộ thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, tự mình chứng ngộ với thắng trí rồi hiển thị cho mọi loài được biết.
So imaṁ lokaṁ sadevakaṁ samārakaṁ sabrahmakaṁ sassamaṇabrāhmaṇiṁ pajaṁ sadevamanussaṁ sayaṁ abhiññā sacchikatvā pavedeti.
Ngài thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, trình bày phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, thanh tịnh.
So dhammaṁ deseti ādikalyāṇaṁ majjhekalyāṇaṁ pariyosānakalyāṇaṁ sātthaṁ sabyañjanaṁ kevalaparipuṇṇaṁ parisuddhaṁ brahmacariyaṁ pakāseti.
Lành thay, nếu được yết kiến một vị A-la-hán như vậy”.
”Sādhu kho pana tathārūpānaṁ arahataṁ dassanaṁ hotī”ti.
Bà-la-môn Lohicca nói với Rosika, người hớt tóc:
Atha kho lohicco brāhmaṇo rosikaṁ nhāpitaṁ āmantesi:
“Này thiện nhân Rosika, hãy đi đến Sa-môn Gotama thay mặt ta hỏi thăm Sa-môn Gotama có được ít bệnh ít não, khinh an, khí lực sung mãn, lạc trú không: “Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Lohicca hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít não, khinh an, khí lực sung mãn, lạc trú không?”
ehi tvaṁ, samma rosike, yena samaṇo gotamo tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā mama vacanena samaṇaṁ gotamaṁ appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ puccha:‘lohicco, bho gotama, brāhmaṇo bhavantaṁ gotamaṁ appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ pucchatī’ti;
và nói thêm: “Mong Thế Tôn nhận lời của Bà-la-môn Lohicca sáng mai đến dùng cơm cùng với đại chúng Tỷ-kheo!”.
evañca vadehi ”adhivāsetu kira bhavaṁ gotamo lohiccassa brāhmaṇassa svātanāya bhattaṁ saddhiṁ bhikkhusaṅghenā”ti.
Tôn giả, xin vâng! Rosika người hớt tóc vâng theo lời của Bà-la-môn Lohicca đến với Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên. Rosika người hớt tóc bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Lohicca hỏi thăm “Thế Tôn có được ít bệnh, ít não, khinh an, khí lực sung mãn, lạc trú không?” và nói thêm: “Mong đức Thế Tôn nhận lời mời của Bà-la-môn Lohicca sáng mai đến dùng cơm với đại chúng Tỷ-kheo”.
“Evaṁ, bho”ti kho rosikā nhāpito lohiccassa brāhmaṇassa paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho rosikā nhāpito bhagavantaṁ etadavoca:“lohicco, bhante, brāhmaṇo bhagavantaṁ appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ pucchati;evañca vadeti—adhivāsetu kira, bhante, bhagavā lohiccassa brāhmaṇassa svātanāya bhattaṁ saddhiṁ bhikkhusaṅghenā”ti.
Ðức Thế Tôn im lặng nhận lời.
Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.
Rosika, người hớt tóc, được biết Thế Tôn nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, đi đến Bà-la-môn Lohicca, khi đã đến, liền thưa với Bà-la-môn Lohicca:
Atha kho rosikā nhāpito bhagavato adhivāsanaṁ viditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā yena lohicco brāhmaṇo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā lohiccaṁ brāhmaṇaṁ etadavoca:
Tôn giả, chúng tôi đã thay mặt Tôn giả thưa với Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Lohicca hỏi thăm Thế Tôn Gotama có được ít bệnh, ít não, khinh an, khí lực sung mãn không” và nói thêm: “Mong Thế Tôn nhận lời của Bà-la-môn Lohicca sáng mai đến dùng cơm với đại chúng Tỷ-kheo” và Thế Tôn nhận lời.
“avocumhā kho mayaṁ bhoto vacanena taṁ bhagavantaṁ:‘lohicco, bhante, brāhmaṇo bhagavantaṁ appābādhaṁ appātaṅkaṁ lahuṭṭhānaṁ balaṁ phāsuvihāraṁ pucchati;evañca vadeti—adhivāsetu kira, bhante, bhagavā lohiccassa brāhmaṇassa svātanāya bhattaṁ saddhiṁ bhikkhusaṅghenā’ti. ”Adhivutthañca pana tena bhagavatā”ti.
Rồi Bà-la-môn, Lohicca sau khi đêm ấy đã mãn, làm sẵn sàng tại nhà các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm rồi nói với Rosika, người hớt tóc:
Atha kho lohicco brāhmaṇo tassā rattiyā accayena sake nivesane paṇītaṁ khādanīyaṁ bhojanīyaṁ paṭiyādāpetvā rosikaṁ nhāpitaṁ āmantesi:
Này thiện nhân Rosika, hãy đi đến Sa-môn Gotama, khi đã đến, hãy báo giờ cho Sa-môn Gotama: “Bạch Thế Tôn, cơm đã sẵn sàng”.
ehi tvaṁ, samma rosike, yena samaṇo gotamo tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā samaṇassa gotamassa kālaṁ ārocehi— ”kālo, bho gotama, niṭṭhitaṁ bhattan”ti.
Tôn giả, xin vâng! Rosika người hớt tóc, vâng theo lời của Bà-la-môn Lohicca, đi đến Thế Tôn, khi đã đến, liền đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Rosika người hớt tóc báo thời giờ cho Sa-môn Gotama: “Bạch Thế Tôn, giờ đã đến, cơm đã sẵn sàng”.
“Evaṁ, bho”ti kho rosikā nhāpito lohiccassa brāhmaṇassa paṭissutvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhāsi.Ekamantaṁ ṭhito kho rosikā nhāpito bhagavato kālaṁ ārocesi:“kālo, bhante, niṭṭhitaṁ bhattan”ti.
Khi ấy Thế Tôn buổi sáng đắp y, đem theo y bát và cùng với chúng Tỷ-kheo đi đến Sālavatikā.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya saddhiṁ bhikkhusaṅghena yena sālavatikā tenupasaṅkami.
Lúc bấy giờ, Rosika, người hớt tóc, đang đi sau lưng Thế Tôn.
Tena kho pana samayena rosikā nhāpito bhagavantaṁ piṭṭhito piṭṭhito anubandho hoti.
Rồi Rosika, người hớt tóc bạch Thế Tôn: Bà-la-môn Lohicca có khởi lên ác kiến sau đây: “Ở đời có vị Sa-môn hay Bà-la-môn chứng được thiện pháp, sau khi chứng được thiện pháp, không nên nói cho người khác biết, vì có ai lại làm giúp cho ai được? Ví như một người, sau khi cắt sợi dây trói buộc, lại tự làm một sợi dây mới khác nữa. Ta nói sự thành tựu là ác pháp, tham pháp. Vì có ai lại làm giúp cho ai được ?”
Atha kho rosikā nhāpito bhagavantaṁ etadavoca:“lohiccassa, bhante, brāhmaṇassa evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ:‘idha samaṇo vā brāhmaṇo vā kusalaṁ dhammaṁ adhigaccheyya, kusalaṁ dhammaṁ adhigantvā na parassa āroceyya—kiñhi paro parassa karissati.Seyyathāpi nāma purāṇaṁ bandhanaṁ chinditvā aññaṁ navaṁ bandhanaṁ kareyya;evaṁ sampadamidaṁ pāpakaṁ lobhadhammaṁ vadāmi—kiñhi paro parassa karissatī’ti.“
Bạch Thế Tôn, lành thay, nếu Thế Tôn có thể giúp Bà-la-môn Lohicca trừ ác kiến ấy!
”Sādhu, bhante, bhagavā lohiccaṁ brāhmaṇaṁ etasmā pāpakā diṭṭhigatā vivecetū”ti.
Này Rosika, việc ấy có thể được. Này Rosika, việc ấy có thể được.
“Appeva nāma siyā, rosike, appeva nāma siyā, rosike”ti.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn đến tại cư xá của Bà-la-môn Lohicca, khi đến liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn.
Atha kho bhagavā yena lohiccassa brāhmaṇassa nivesanaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.
Bà-la-môn Lohicca tự tay làm cho chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu, thỏa mãn với những món thượng vị, loại cứng loại mềm.
Atha kho lohicco brāhmaṇo buddhappamukhaṁ bhikkhusaṅghaṁ paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappesi sampavāresi.
1. Câu Hỏi Của Bà-la-môn Lohicca
1. Lohiccabrāhmaṇānuyoga
Bà-la-môn Lohicca, sau khi biết Thế Tôn dùng cơm xong, tay đã rời khỏi bát, liền lấy một ghế ngồi thấp khác và ngồi xuống một bên.
Atha kho lohicco brāhmaṇo bhagavantaṁ bhuttāviṁ onītapattapāṇiṁ aññataraṁ nīcaṁ āsanaṁ gahetvā ekamantaṁ nisīdi.
Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn Lohicca:
Ekamantaṁ nisinnaṁ kho lohiccaṁ brāhmaṇaṁ bhagavā etadavoca:
Này Lohicca, có thật chăng, Ngươi khởi lên ác kiến như sau:
saccaṁ kira te, lohicca, evarūpaṁ pāpakaṁ diṭṭhigataṁ uppannaṁ:
“Ở đời, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn chứng được thiện pháp, sau khi chứng được thiện pháp, không nên nói cho người khác biết, vì có ai lại làm giúp cho ai được?
idha samaṇo vā brāhmaṇo vā kusalaṁ dhammaṁ adhigaccheyya, kusalaṁ dhammaṁ adhigantvā na parassa āroceyya, kiñhi paro parassa karissati.
Ví như một người sau khi cắt sợi dây cũ trói buộc, lại tự làm một sợi dây mới khác nữa.
Seyyathāpi nāma purāṇaṁ bandhanaṁ chinditvā aññaṁ navaṁ bandhanaṁ kareyya;
Ta nói sự thành tựu ấy là ác pháp, tham pháp. Vì có ai lại làm giúp cho ai được?”
”evaṁ sampadamidaṁ pāpakaṁ lobhadhammaṁ vadāmi, kiñhi paro parassa karissatī’”ti?
Vâng phải, Tôn giả Gotama!
“Evaṁ, bho gotama”.
Này Lohicca, Ngươi nghĩ thế nào, “có phải Ngươi ở tại Sālavatikā?”
Taṁ kiṁ maññasi, lohicca, ”nanu tvaṁ sālavatikaṁ ajjhāvasasī”ti?
Vâng phải, Tôn giả Gotama!
“Evaṁ, bho gotama”.
Này Lohicca, nếu có người nói:
Yo nu kho, lohicca, evaṁ vadeyya:
“Bà-la-môn Lohicca sống ở Sālavatikā. Hãy để Bà-la-môn Lohicca hưởng một mình mọi sản phẩm của Sālavatikā, không cho một ai khác”.
Lohicco brāhmaṇo sālavatikaṁ ajjhāvasati. Yā sālavatikāya samudayasañjāti lohiccova taṁ brāhmaṇo ekako paribhuñjeyya, na aññesaṁ dadeyyā’ti.
Người nói vậy là người gây chướng ngại cho ai sống tùy thuộc vào Ngươi, có phải không?
”Evaṁ vādī so ye taṁ upajīvanti, tesaṁ antarāyakaro vā hoti, no vā”ti?
Tôn giả Gotama, là người gây chướng ngại.
“Antarāyakaro, bho gotama”.
Này Lohicca, đã là người gây chướng ngại, người ấy có phải là người có từ tâm nghĩ đến lợi ích cho những người kia?
“Antarāyakaro samāno hitānukampī vā tesaṁ hoti ahitānukampī vā”ti?
Tôn giả Gotama, là người không có từ tâm nghĩ đến lợi ích.
“Ahitānukampī, bho gotama”.
Ðã không có từ tâm nghĩ đến lợi ích, người ấy an trú từ tâm hay an trú hại tâm?
“Ahitānukampissa mettaṁ vā tesu cittaṁ paccupaṭṭhitaṁ hoti sapattakaṁ vā”ti?
Tôn giả Gotama, hại tâm!
“Sapattakaṁ, bho gotama”.
Khi an trú hại tâm, như vậy là chánh kiến hay tà kiến?
“Sapattake citte paccupaṭṭhite micchādiṭṭhi vā hoti sammādiṭṭhi vā”ti?
Tôn giả Gotama, là tà kiến!
“Micchādiṭṭhi, bho gotama”.
Này Lohicca, Ta nói rằng, một người tà kiến sẽ sanh vào một trong hai ác thú sau đây: địa ngục hay súc sanh.
Micchādiṭṭhissa kho ahaṁ, lohicca, dvinnaṁ gatīnaṁ aññataraṁ gatiṁ vadāmi nirayaṁ vā tiracchānayoniṁ vā.
Này Lohicca, ngươi nghĩ thế nào?
Taṁ kiṁ maññasi, lohicca,
Có phải vua Pasenadi Kosala (Ba-tư-nặc-câu-tát-la) ở tại Kāsī – Kosala (Ca-Thi Câu-tát-la) không?
”nanu rājā pasenadi kosalo kāsikosalaṁ ajjhāvasatī”ti?
Tôn giả Gotama, vâng phải!
“Evaṁ, bho gotama”.
Này Lohicca, nếu có người nói:
Yo nu kho, lohicca, evaṁ vadeyya:
“Vua Pasenadi Kosala sống ở Kasi-Kosala; Hãy để vua Pasenadi Kosala hưởng một mình mọi sản phẩm của Kasi – Kosala, không một ai khác”.
rājā pasenadi kosalo kāsikosalaṁ ajjhāvasati; ’yā kāsikosale samudayasañjāti, rājāva taṁ pasenadi kosalo ekako paribhuñjeyya, na aññesaṁ dadeyyā’ti.
Người nói như vậy có phải là người gây chướng ngại cho những ai sống tùy thuộc vào vua Pasenadi Kosala, có phải không?
”Evaṁ vādī so ye rājānaṁ pasenadiṁ kosalaṁ upajīvanti tumhe ceva aññe ca, tesaṁ antarāyakaro vā hoti, no vā”ti?
Tôn giả Gotama, là người đã gây chướng ngại.
“Antarāyakaro, bho gotama”.
Này Lohicca, đã là người gây chướng ngại, người ấy có phải là người có từ tâm nghĩ đến lợi ích cho những người kia hay là người không có từ tâm nghĩ đến lợi ích cho những người kia.
“Antarāyakaro samāno hitānukampī vā tesaṁ hoti ahitānukampī vā”ti?
“Tôn giả Gotama, là người không có từ tâm nghĩ đến lợi ích.”
“Ahitānukampī, bho gotama”.
Ðã không có từ tâm nghĩ đến lợi ích, người ấy an trú từ tâm hay an trú hại tâm?
“Ahitānukampissa mettaṁ vā tesu cittaṁ paccupaṭṭhitaṁ hoti sapattakaṁ vā”ti?
Tôn giả Gotama, hại tâm!
“Sapattakaṁ, bho gotama”.
Khi an trú hại tâm, như vậy là chánh kiến hay tà kiến?
“Sapattake citte paccupaṭṭhite micchādiṭṭhi vā hoti sammādiṭṭhi vā”ti?
Tôn giả Gotama, là tà kiến!
“Micchādiṭṭhi, bho gotama”.
Này Lohicca, ta nói rằng, một người tà kiến sẽ sanh vào một trong hai ác thú sau đây: địa ngục hay súc sanh.
Micchādiṭṭhissa kho ahaṁ, lohicca, dvinnaṁ gatīnaṁ aññataraṁ gatiṁ vadāmi: nirayaṁ vā tiracchānayoniṁ vā.
Này Lohicca, nếu có người nói: “Bà-la-môn Lohicca sống ở Sālavatikā. Hãy để Bà-la-môn Lohicca hưởng một mình mọi sản phẩm của Sālavatikā, không cho một ai khác”. Người nói vậy là người gây chướng ngại cho ai tùy thuộc vào Ngươi;
Iti kira, lohicca, yo evaṁ vadeyya: lohicco brāhmaṇo sālavatikaṁ ajjhāvasati;yā sālavatikāya samudayasañjāti, lohiccova taṁ brāhmaṇo ekako paribhuñjeyya, na aññesaṁ dadeyyā’ti.Evaṁvādī so ye taṁ upajīvanti, tesaṁ antarāyakaro hoti.
đã là người gây chướng ngại, người ấy không có từ tâm nghĩ đến lợi ích, người ấy an trú hại tâm; và đã an trú hại tâm tức thuộc về tà kiến.
Antarāyakaro samāno ahitānukampī hoti, ahitānukampissa sapattakaṁ cittaṁ paccupaṭṭhitaṁ hoti, sapattake citte paccupaṭṭhite micchādiṭṭhi hoti.
Ðã như vậy, này Lohicca, nếu có người nói:
Evameva kho, lohicca, yo evaṁ vadeyya:
“Ở đời có vị Sa-môn hay Bà-la-môn chứng được thiện pháp, sau khi chứng được thiện pháp, không nên nói cho người ta biết, vì có ai lại làm giúp cho ai được?
idha samaṇo vā brāhmaṇo vā kusalaṁ dhammaṁ adhigaccheyya, kusalaṁ dhammaṁ adhigantvā na parassa āroceyya, kiñhi paro parassa karissati
Ví như một người cắt sợi dây cũ trói buộc, lại tự làm một sợi dây mới khác nữa … Ta nói sự thành tựu là ác pháp, tham pháp. Vì có ai lại làm giúp cho ai được?”
Seyyathāpi nāma purāṇaṁ bandhanaṁ chinditvā aññaṁ navaṁ bandhanaṁ kareyya …pe… ’karissatī’ti.
Người nói vậy gây chướng ngại cho những thiện nam tử đến với pháp luật do đức Như Lai giảng dạy và chứng được những quả vị thù thắng đặc biệt như Dự lưu, Nhất lai, Bất lai hay A-la-hán quả. Người nói vậy cũng gây chướng ngại cho những vị đang làm cho thành tựu sự tái sanh lên các cõi trời để được sanh làm chư Thiên. Ðã là người gây chướng ngại, người ấy không có từ tâm nghĩ đến lợi ích, người ấy an trú hại tâm; và đã an trú hại tâm tức thuộc về tà kiến.
Evaṁvādī so ye te kulaputtā tathāgatappaveditaṁ dhammavinayaṁ āgamma evarūpaṁ uḷāraṁ visesaṁ adhigacchanti, sotāpattiphalampi sacchikaronti, sakadāgāmiphalampi sacchikaronti, anāgāmiphalampi sacchikaronti, arahattampi sacchikaronti, ye cime dibbā gabbhā paripācenti dibbānaṁ bhavānaṁ abhinibbattiyā, tesaṁ antarāyakaro hoti, antarāyakaro samāno ahitānukampī hoti, ahitānukampissa sapattakaṁ cittaṁ paccupaṭṭhitaṁ hoti, sapattake citte paccupaṭṭhite micchādiṭṭhi hoti.
Và này Lohicca, ta nói rằng một người có tà kiến sẽ sanh vào một trong hai ác thú sau đây: địa ngục hay súc sanh.
Micchādiṭṭhissa kho ahaṁ, lohicca, dvinnaṁ gatīnaṁ aññataraṁ gatiṁ vadāmi: nirayaṁ vā tiracchānayoniṁ vā.
Này Lohicca, nếu có người nói: “Vua Pasenadi Kosala sống ở tại Kasi-Kosala. Hãy để vua Pasenadi Kosala hưởng một mình mọi sản phẩm của Kasi -Kosala, không cho một ai khác”. Người nói vậy là người gây chướng ngại cho ai sống tùy thuộc vào người ấy. Ðã là người gây nguy hiểm, người ấy không tha thiết đến hạnh phúc. Ðã không tha thiết đến hạnh phúc, người ấy an trú hại tâm; và an trú hại tâm tức thuộc về tà kiến.
Iti kira, lohicca, yo evaṁ vadeyya:‘rājā pasenadi kosalo kāsikosalaṁ ajjhāvasati;yā kāsikosale samudayasañjāti, rājāva taṁ pasenadi kosalo ekako paribhuñjeyya, na aññesaṁ dadeyyā’ti.Evaṁvādī so ye rājānaṁ pasenadiṁ kosalaṁ upajīvanti tumhe ceva aññe ca, tesaṁ antarāyakaro hoti.Antarāyakaro samāno ahitānukampī hoti, ahitānukampissa sapattakaṁ cittaṁ paccupaṭṭhitaṁ hoti, sapattake citte paccupaṭṭhite micchādiṭṭhi hoti.
Ðã như vậy, này Lohicca, nếu có ai nói: “Ở đời có vị Sa-môn chứng được thiện pháp, sau khi chứng được thiện pháp, không nên nói cho người khác, vì có ai lại làm giúp cho ai được? Ví như một người cắt sợi dây cũ trói buộc, lại tự làm một sợi dây mới khác nữa. Ta nói sự thành tựu ấy là ác pháp, tham pháp. Vì có ai lại làm giúp cho ai được?” Người nói vậy gây chướng ngại cho người thiện nam tử đến với pháp luật do đức Như Lai giảng dạy và chứng được những quả vị thù thắng đặc biệt như Dự lưu, Nhất lai, Bất lai hay A-la-hán quả. Người nói vậy gây nguy hiểm cho những vị đang làm cho thành tựu sự tái sanh lên các cõi trời để được sanh làm chư Thiên. Ðã là người gây chướng ngại, người ấy không có từ tâm nghĩ đến lợi ích, người ấy an trú hại tâm; và đã an trú hại tâm tức thuộc về tà kiến”. Và này Lohicca, Ta nói rằng một người có tà kiến sẽ sanh vào một trong hai ác thú sau đây: địa ngục hay súc sinh.
Evameva kho, lohicca, yo evaṁ vadeyya:‘idha samaṇo vā brāhmaṇo vā kusalaṁ dhammaṁ adhigaccheyya, kusalaṁ dhammaṁ adhigantvā na parassa āroceyya, kiñhi paro parassa karissati.Seyyathāpi nāma …pe…kiñhi paro parassa karissatī’ti.Evaṁvādī so ye te kulaputtā tathāgatappaveditaṁ dhammavinayaṁ āgamma evarūpaṁ uḷāraṁ visesaṁ adhigacchanti, sotāpattiphalampi sacchikaronti, sakadāgāmiphalampi sacchikaronti, anāgāmiphalampi sacchikaronti, arahattampi sacchikaronti.Ye cime dibbā gabbhā paripācenti dibbānaṁ bhavānaṁ abhinibbattiyā, tesaṁ antarāyakaro hoti,antarāyakaro samāno ahitānukampī hoti, ahitānukampissa sapattakaṁ cittaṁ paccupaṭṭhitaṁ hoti, sapattake citte paccupaṭṭhite micchādiṭṭhi hoti.Micchādiṭṭhissa kho ahaṁ, lohicca, dvinnaṁ gatīnaṁ aññataraṁ gatiṁ vadāmi—nirayaṁ vā tiracchānayoniṁ vā.
2. Ba Vị Đạo Sự Đáng Bị Chỉ Trích
2. Tayocodanārahā
Này Lohicca, ở đời có ba vị đạo sư đáng bị chỉ trích và ai chỉ trích đạo sư như vậy; sự chỉ trích của vị này chơn chánh, hợp pháp, không lỗi lầm.
Tayo khome, lohicca, satthāro, ye loke codanārahā; yo ca panevarūpe satthāro codeti, sā codanā bhūtā tacchā dhammikā anavajjā.
Thế nào là ba?
Katame tayo?
Này Lohicca, ở đời có một vị đạo sư không chứng mục đích của Sa-môn quả mà mọi người xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến.
Idha, lohicca, ekacco satthā yassatthāya agārasmā anagāriyaṁ pabbajito hoti, svāssa sāmaññattho ananuppatto hoti.
Không chứng được mục đích Sa-môn quả, vị này thuyết pháp cho các đệ tử:
So taṁ sāmaññatthaṁ ananupāpuṇitvā sāvakānaṁ dhammaṁ deseti:
“Như thế này là lợi ích cho các người! Như thế này là hạnh phúc cho các người!”
‘idaṁ vo hitāya idaṁ vo sukhāyā’ti.
Những đệ tử này không nghe lời dạy của vị ấy, không để tai ghi nhận, không trú tâm phát xuất từ hiểu biết và sống trái ngược với giáo pháp của vị bổn sư.
Tassa sāvakā na sussūsanti, na sotaṁ odahanti, na aññā cittaṁ upaṭṭhapenti, vokkamma ca satthusāsanā vattanti.
Ðạo sư như vậy cần phải được khiển trách:
So evamassa codetabbo:
“Ðại đức không chứng mục đích Sa-môn quả mà Ðại đức xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Không chứng được mục đích Sa-môn quả ấy, Ðại đức thuyết pháp cho các đệ tử: “Như thế này là lợi ích cho các người. Như thế này là hạnh phúc cho các người”.
āyasmā kho yassatthāya agārasmā anagāriyaṁ pabbajito, so te sāmaññattho ananuppatto, taṁ tvaṁ sāmaññatthaṁ ananupāpuṇitvā sāvakānaṁ dhammaṁ desesi:“idaṁ vo hitāya idaṁ vo sukhāyā”ti.
Những đệ tử này không nghe lời dạy của Ðại đức, không để tai ghi nhận, không trú tâm phát xuất từ hiểu biết và sống trái ngược với giáo pháp của vị bổn sư.
Tassa te sāvakā na sussūsanti, na sotaṁ odahanti, na aññā cittaṁ upaṭṭhapenti, vokkamma ca satthusāsanā vattanti.
Như người tán tỉnh cô gái muốn xa mình, hay ôm hôn cô gái muốn né mặt mình; “ta nói cử chỉ ấy là ác pháp, tham pháp vì có ai lại làm giúp cho ai được?”
Seyyathāpi nāma osakkantiyā vā ussakkeyya, parammukhiṁ vā āliṅgeyya; ’evaṁ sampadamidaṁ pāpakaṁ lobhadhammaṁ vadāmi—kiñhi paro parassa karissatī’ti.
Này Lohicca, như vậy là hạng đạo sư thứ nhất đáng bị chỉ trích và ai chỉ trích đạo sư như vậy, sự chỉ trích của vị này chơn chánh, hợp pháp, không lỗi lầm.
Ayaṁ kho, lohicca, paṭhamo satthā, yo loke codanāraho;yo ca panevarūpaṁ satthāraṁ codeti, sā codanā bhūtā tacchā dhammikā anavajjā.
Lại nữa, này Lohicca, ở đời có vị đạo sư không chứng mục đích của Sa-môn quả mà mọi người xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến.
Puna caparaṁ, lohicca, idhekacco satthā yassatthāya agārasmā anagāriyaṁ pabbajito hoti, svāssa sāmaññattho ananuppatto hoti.
Không chứng được mục đích Sa-môn quả ấy, vị này thuyết pháp cho các đệ tử:
So taṁ sāmaññatthaṁ ananupāpuṇitvā sāvakānaṁ dhammaṁ deseti:
“Như thế này là lợi ích cho các người! Như thế này là hạnh phúc cho các người!”.
‘idaṁ vo hitāya, idaṁ vo sukhāyā’ti.
Những đệ tử này nghe lời dạy của vị ấy, lóng tai ghi nhận và trú tâm phát xuất từ hiểu biết, sống không trái với giáo pháp của vị bổn sư.
Tassa sāvakā sussūsanti, sotaṁ odahanti, aññā cittaṁ upaṭṭhapenti, na ca vokkamma satthusāsanā vattanti.
Ðạo sư như vậy cần phải được khiển trách:
So evamassa codetabbo:
Ðại đức không chứng mục đích Sa-môn quả mà Ðại đức xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Không chứng được mục đích Sa-môn quả ấy, Ðại đức thuyết pháp cho các đệ tử: “Như thế này là lợi ích cho các người! Như thế này là hạnh phúc cho các người”.
āyasmā kho yassatthāya agārasmā anagāriyaṁ pabbajito, so te sāmaññattho ananuppatto. Taṁ tvaṁ sāmaññatthaṁ ananupāpuṇitvā sāvakānaṁ dhammaṁ desesi:“idaṁ vo hitāya, idaṁ vo sukhāyā”ti.
Những đệ tử này nghe lời dạy của Ðại đức, lóng tai ghi nhận, trú tâm phát xuất từ hiểu biết, nhưng sống trái ngược với giáo pháp của vị bổn sư.
Tassa te sāvakā sussūsanti, sotaṁ odahanti, aññā cittaṁ upaṭṭhapenti, na ca vokkamma satthusāsanā vattanti.
Như người bỏ ruộng dưa của mình mà nghĩ đến việc nhổ cỏ cho ruộng của người. Ta nói cử chỉ ấy là ác pháp, tham pháp vì có ai lại làm giúp cho ai được?”
’Seyyathāpi nāma sakaṁ khettaṁ ohāya paraṁ khettaṁ niddāyitabbaṁ maññeyya, evaṁ sampadamidaṁ pāpakaṁ lobhadhammaṁ vadāmi—kiñhi paro parassa karissatī’ti.
Này Lohicca, như vậy là hạng đạo sư thứ hai đáng bị chỉ trích và ai chỉ trích đạo sư như vậy, sự chỉ trích của vị này chơn chánh, hợp pháp, không sai lầm.
Ayaṁ kho, lohicca, dutiyo satthā, yo, loke codanāraho;yo ca panevarūpaṁ satthāraṁ codeti, sā codanā bhūtā tacchā dhammikā anavajjā.
Lại nữa, này Lohicca, ở đời có vị đạo sư chứng mục đích của Sa-môn quả mà mọi người xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến.
Puna caparaṁ, lohicca, idhekacco satthā yassatthāya agārasmā anagāriyaṁ pabbajito hoti, svāssa sāmaññattho anuppatto hoti.
Không chứng được mục đích Sa-môn quả ấy, vị này thuyết pháp cho các đệ tử:
So taṁ sāmaññatthaṁ anupāpuṇitvā sāvakānaṁ dhammaṁ deseti:
“Như thế này là lợi ích cho các người! Như thế này là hạnh phúc cho các người”.
‘idaṁ vo hitāya, idaṁ vo sukhāyā’ti.
Những đệ tử này không nghe lời dạy của vị ấy, không lóng tai nghi nhận, không trú tâm xuất phát từ hiểu biết, sống trái ngược với giáo pháp của vị bổn sư.
Tassa sāvakā na sussūsanti, na sotaṁ odahanti, na aññā cittaṁ upaṭṭhapenti, vokkamma ca satthusāsanā vattanti.
Ðạo sư như vậy cần phải được khiển trách:
So evamassa codetabbo:
“Ðại đức đã chứng được mục đích Sa-môn quả mà Ðại đức xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, hướng đến. Chứng được mục đích Sa-môn quả ấy, Ðại đức thuyết pháp cho các đệ tử: “Như thế này là lợi ích cho các ngươi! Như thế này là hạnh phúc cho các ngươi!”
āyasmā kho yassatthāya agārasmā anagāriyaṁ pabbajito, so te sāmaññattho anuppatto.Taṁ tvaṁ sāmaññatthaṁ anupāpuṇitvā sāvakānaṁ dhammaṁ desesi:“idaṁ vo hitāya, idaṁ vo sukhāyā”ti.
Những đệ tử này không nghe lời dạy của Ðại đức, không lóng tai nghi nhận, không trú tâm xuất phát từ hiểu biết, sống trái ngược với giáo pháp của vị bổn sư.
Tassa te sāvakā na sussūsanti, na sotaṁ odahanti, na aññā cittaṁ upaṭṭhapenti, vokkamma ca satthusāsanā vattanti.
Như người cắt sợi dây cũ trói buộc, lại tự làm một sợi mới khác né mặt mình; “ta nói cử chỉ ấy là ác pháp, tham pháp vì có ai lại làm giúp cho ai được?”
Seyyathāpi nāma purāṇaṁ bandhanaṁ chinditvā aññaṁ navaṁ bandhanaṁ kareyya; ’evaṁ sampadamidaṁ pāpakaṁ lobhadhammaṁ vadāmi, kiñhi paro parassa karissatī’ti.
Này Lohicca, như vậy là hạng đạo sư thứ ba đáng bị chỉ trích và ai chỉ trích đạo sư như vậy, sự chỉ trích của vị này chơn chánh, hợp pháp, không lỗi lầm.
Ayaṁ kho, lohicca, tatiyo satthā, yo loke codanāraho;yo ca panevarūpaṁ satthāraṁ codeti, sā codanā bhūtā tacchā dhammikā anavajjā.
Này Lohicca, như vậy là hạng đạo sư thứ ba đáng bị chỉ trích, “ai chỉ trích đạo sư như vậy, sự chỉ trích của vị này chơn chánh, hợp pháp, không lỗi lầm.”
Ime kho, lohicca, tayo satthāro, ye loke codanārahā, ”yo ca panevarūpe satthāro codeti, sā codanā bhūtā tacchā dhammikā anavajjā”ti.
3. Ba Hạng Đạo Sư Không Đáng Bị Chỉ Trích
3. Nacodanārahasatthu
Khi nghe nói như vậy, Bà-la-môn Lohicca bạch đức Thế Tôn:
Evaṁ vutte, lohicco brāhmaṇo bhagavantaṁ etadavoca:
Tôn giả Gotama, ở đời có vị đạo sư nào không đáng bị chỉ trích?
“atthi pana, bho gotama, koci satthā, yo loke nacodanāraho”ti?
Này Lohicca, ở đời có vị đạo sư không đáng bị chỉ trích.
“Atthi kho, lohicca, satthā, yo loke nacodanāraho”ti.
Tôn giả Gotama, ở đời, thế nào là đạo sư không đáng bị chỉ trích?
“Katamo pana so, bho gotama, satthā, yo loke nacodanāraho”ti?
Này Lohicca, ở đời, đức Như Lai xuất hiện, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn… (DN2 4.3. Kết Quả Thù Thắng Hơn Của Hạnh Sa Môn)
Idha, lohicca, tathāgato loke uppajjati arahaṁ, sammāsambuddho …pe…
Như vậy là giới hạnh của vị ấy. … (DN2 4.3.1 Giới)
Evaṁ kho, lohicca, bhikkhu sīlasampanno hoti …pe…
Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái ấy, hân hoan sanh, do hân hoan, nên hoan hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh an, do thân khinh an, lạc thọ sanh, do lạc thọ, tâm được định tĩnh Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này Lohicca, như một người hầu tắm lão luyện hay đệ tử người hầu tắm. Sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột ấy thấm nhuần nước ướt nhào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt – cũng vậy này Lohicca, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy trên thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân, không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. (DN2 4.3.2.5. Nhất Thiền)
paṭhamaṁ jhānaṁ upasampajja viharati …
Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị đạo sư không đáng bị chỉ trích.
yasmiṁ kho, lohicca, satthari sāvako evarūpaṁ uḷāraṁ visesaṁ adhigacchati, ayampi kho, lohicca, satthā, yo loke nacodanāraho.
Và ai chỉ trích một vị đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thực, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm …
Yo ca panevarūpaṁ satthāraṁ codeti, sā codanā abhūtā atacchā adhammikā sāvajjā …pe…
Này Lohicca, lại nữa, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm … (DN2 4.3.2.6. Nhị Thiền)
Dutiyaṁ jhānaṁ …pe…
thiền thứ ba… (DN2 4.3.2.7. Tam Thiền)
tatiyaṁ jhānaṁ …pe…
chứng và trú thiền thứ tư … (DN2 4.3.2.8 Tứ Thiền)
catutthaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.
Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị đạo sư như vậy không đáng bị chỉ trích, và ai chỉ trích một vị đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thật, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.
Yasmiṁ kho, lohicca, satthari sāvako evarūpaṁ uḷāraṁ visesaṁ adhigacchati, ayampi kho, lohicca, satthā, yo loke nacodanāraho, yo ca panevarūpaṁ satthāraṁ codeti, sā codanā abhūtā atacchā adhammikā sāvajjā …pe…
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật, “Ðây là khổ” … (DN2 4.3.3 Bát Minh)
Ñāṇadassanāya cittaṁ abhinīharati abhininnāmeti …
Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, này Lohicca, vị đạo sư như vậy không đáng bị chỉ trích, và ai chỉ trích một đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thật, không chơn chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm!
yasmiṁ kho, lohicca, satthari sāvako evarūpaṁ uḷāraṁ visesaṁ adhigacchati, ayampi kho, lohicca, satthā, yo loke nacodanāraho, yo ca panevarūpaṁ satthāraṁ codeti, sā codanā abhūtā atacchā adhammikā sāvajjā.
Vị ấy biết: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa.
…pe… Nāparaṁ itthattāyāti pajānāti.
Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, này Lohicca, vị đạo sư như vậy không đáng bị chỉ trích, và ai chỉ trích một đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thật, không chơn chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm!
”Yasmiṁ kho, lohicca, satthari sāvako evarūpaṁ uḷāraṁ visesaṁ adhigacchati, ayampi kho, lohicca, satthā, yo loke nacodanāraho, yo ca panevarūpaṁ satthāraṁ codeti, sā codanā abhūtā atacchā adhammikā sāvajjā”ti.
Khi nghe như vậy, Bà-la-môn Lohicca bạch đức Thế Tôn:
Evaṁ vutte, lohicco brāhmaṇo bhagavantaṁ etadavoca:
Như người nắm được tóc của một người sắp sửa rơi vào vực thẳm của địa ngục, nhắc bổng và đặt người ấy trên đất liền,
seyyathāpi, bho gotama, puriso purisaṁ narakapapātaṁ patantaṁ kesesu gahetvā uddharitvā thale patiṭṭhapeyya;
cũng vậy Tôn giả Gotama đã nắm được tóc khi con sắp sửa rơi vào vực thẳm của địa ngục, nhắc bổng và đặt con trên đất liền.
evamevāhaṁ bhotā gotamena narakapapātaṁ papatanto uddharitvā thale patiṭṭhāpito.
Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
Abhikkantaṁ, bho gotama, abhikkantaṁ, bho gotama.
Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy Chánh pháp đã được đức Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày.
Seyyathāpi, bho gotama, nikkujjitaṁ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṁ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṁ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṁ dhāreyya: ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti; evamevaṁ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo pakāsito.
Nay con xin quy y đức Thế Tôn, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng.
Esāhaṁ bhavantaṁ gotamaṁ saraṇaṁ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca.
Mong đức Thế Tôn nhận con làm đệ tử từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
”Upāsakaṁ maṁ bhavaṁ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṁ saraṇaṁ gatan”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt